Sách Xã hội mở
Dẫn nhập
00:26
Đây là một cuốn sách về triết học thực tiễn: Nó cung cấp một khung khổ quan niệm có ý định dùng như một chỉ dẫn cho hành động. Tôi đã được khung khổ đó hướng dẫn trong cả các hoạt động kiếm tiền lẫn từ thiện, và tôi tin rằng nó cũng áp dụng cho xã hội nói chung: Nó cung cấp các nguyên tắc chỉ đạo cho một xã hội mở toàn cầu. Đây là một sự đảm đương đầy tham vọng. Để thực hiện nó, tôi sẽ phải đề cập nhiều lĩnh vực và di chuyển trên nhiều mức: triết học, thực tiễn, công cộng và cá nhân.
Ở mức thực tiễn, tôi đã thiết lập một mạng lưới các quỹ từ thiện nhằm cổ vũ cho các xã hội mở. Mạng lưới này bao trùm tất cả các nước của đế chế Soviet trước kia và nó đã lan sang những phần khác của thế giới: Nam Phi, mười nướcNam châu Phi, mười sáu nước Tây Phi , Haiti , Guatemala , Miến Điện, và gần đây hơn Indonesia . Cũng có một Viện Xã hội mở [Open Society Institute] ở Hoa Kì. Mỗi quỹ quốc gia có hội đồng quản trị và nhân viên riêng của mình những người quyết định những ưu tiên riêng của họ và chịu trách nhiệm về các hoạt động của quỹ trong nước mình. Chúng hỗ trợ xã hội dân sự; chúng cũng cố gắng làm việc với chính quyền trung ương và địa phương bởi vì một chính phủ dân chủ và hiệu quả là một thành phần cốt yếu của một xã hội mở, nhưng chúng thường bất hoà với chính phủ hoặc với một số hoạt động của nó. Trong một số nước, nổi bật ở Slovakia và Croatia , các quỹ đã thành công trong huy động xã hội dân sự chống lại chế độ áp bức. Ở Belarus và Miến Điện, các quỹ bị cấm và hoạt động từ bên ngoài. Ở Serbia , nó hoạt động trong những hoàn cảnh gieo neo. Ngoài ra, chúng tôi có một mạng lưới các chương trình trong những lĩnh vực mà mạng lưới tham gia tích cực nhất: giáo dục bậc cao và giáo dục phổ thông; thanh niên; pháp trị, tư pháp và hành pháp, bao gồm cả nhà tù; nghệ thuật và các định chế văn hoá; thư viện, xuất bản, và Internet; các phương tiện thông tin; các tầng lớp dân cư dễ bị tổn thương như những người thiểu năng tâm thần; các sắc tộc thiểu số, với nhấn mạnh đặc biệt đến những người di gan; sức khoẻ cộng đồng, lạm dụng rượu và ma tuý; và vân vân.
Tôi có được sự công nhận rộng rãi, thực ra bị cường điệu, như một loại guru tài chính nào đó, nhưng những thành tích của tôi do giữ các quan điểm về các vấn đề chính trị và an ninh được công nhận ít rõ hơn. Thực ra, tôi chỉ là một trong nhiều người hành nghề tài chính; song tôi hầu như là người duy nhất thực hành ngăn chặn khủng hoảng một cách có mục đích và có tổ chức.
Trong cuốn sách này tôi chủ trương rằng các nền dân chủ trên thế giới nên thiết lập một liên minh với mục đích kép, thứ nhất, để cổ vũ cho phát triển các xã hội mở ở riêng từng nước và, thứ hai, để củng cố luật pháp và các định chế quốc tế cần thiết cho một xã hội mở toàn cầu.
Chúng ta sống trong một thế giới được đặc trưng bởi trao đổi tự do về hàng hoá và dịch vụ và thậm chí còn hơn bởi sự di chuyển tự do của vốn. Kết quả là, lãi suất, tỉ giá hối đoái, và giá cổ phiếu ở nhiều nước khác nhau gắn kết chặt chẽ với nhau, và các thị trường tài chính có ảnh hưởng ghê gớm đến tình hình kinh tế ở mọi nơi. Vốn tài chính có được một vị trí đặc ân. Vốn dễ lưu động hơn các yếu tố sản xuất khác, và vốn tài chính thậm chí còn lưu động hơn các dạng khác của vốn. Toàn cầu hoá các thị trường tài chính đã làm giảm khả năng của các nước riêng biệt để đánh thuế và điều tiết vốn vì nó có thể chuyển sang chỗ khác. Căn cứ vào vai trò quyết định mà vốn tài chính quốc tế đóng trong vận may của các nước riêng biệt, nên không phải không thích hợp để nói về một hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu.
Chúng ta có thể nói về thắng lợi của chủ nghĩa tư bản trên thế giới, song chúng ta chưa thể nói về thắng lợi của dân chủ. Có một sự không xứng đôi nghiêm trọng giữa tình hình chính trị và kinh tế thịnh hành trên thế giới ngày nay. Chúng ta có một nền kinh tế toàn cầu, song những dàn xếp chính trị vẫn dựa vững chắc vào chủ quyền quốc gia. Làm sao có thể dung hoà nhu cầu của một xã hội toàn cầu với các quốc gia có chủ quyền? Đó là vấn đề cốt yếu đối mặt với chúng ta ngày nay.
Chủ nghĩa tư bản và dân chủ không nhất thiết gắn bó chặt chẽ với nhau. Có tương quan nào đó: Tăng các tiêu chuẩn sống và sự hình thành một tầng lớp trung lưu có xu hướng tạo áp lực cho quyền tự do và dân chủ; chúng cũng có xu hướng ủng hộ ổn định chính trị lớn hơn. Song mối liên hệ còn xa mới là tự động. Các chế độ áp bức không nới lỏng sự kìm kẹp của chúng về quyền lực một cách tự nguyện, và chúng thường được trợ giúp và tiếp tay bởi các giới kinh doanh, cả nước ngoài và nội địa. Chúng ta có thể thấy điều này ở nhiều nước, đặc biệt ở những nơi dính đến tài nguyên thiên nhiên như dầu hay kim cương. Có lẽ mối đe doạ lớn nhất đối với quyền tự do và dân chủ trên thế giới ngày nay là từ sự hình thành các liên minh tội lỗi giữa chính phủ và giới kinh doanh.
Đây không phải là hiện tượng mới. Nó thường được gọi là chủ nghĩa phát xít, và nó đặc trưng choItaly của Mussolini và ở mức độ khác nhau cho nước Đức của Hitler, Tây Ban Nha của Franco, Bồ Đào Nha của Salazar. Ngày nay nó có các hình thức khác nhau, nhưng nó có thể được phát hiện ra ở Peru của Fujimori, Zimbabwe của Mugabe, Miến điện của SPDC, Malaysia của Mahathir, chỉ nhắc tới vài trường hợp. Làm bối rối hơn, sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản cũng đã dẫn tới một liên minh tội lỗi giữa giới kinh doanh lớn và chính phủ ở nhiều nước, gồm có Nga. Có thể thấy diện mạo bề ngoài của quá trình dân chủ, song quyền lực nhà nước được hướng trệch làm lợi cho các giới tư nhân. Các nước dân chủ không chú ý nhiều đến tình hình chính trị thịnh hành ở các nước khác: Các ưu tiên khác thường có địa vị cao hơn. Thế nhưng nhân dân sống trong các chế độ áp bức cần sự giúp đỡ từ bên ngoài; nhiều khi đó là cứu tinh duy nhất của họ.
Chủ nghĩa tư bản rất thành công trong tạo ra của cải, song chúng ta không thể dựa vào nó để đảm bảo tự do, dân chủ, và pháp trị. Kinh doanh có động cơ là lợi nhuận; nó không được thiết kế để bảo vệ các nguyên lí phổ quát. Hầu hết những người kinh doanh là các công dân ngay thẳng; nhưng điều đó không làm thay đổi sự thực là kinh doanh được tiến hành vì lợi lộc tư nhân chứ không vì lợi ích công cộng. Trách nhiệm hàng đầu của ban quản lí là với các chủ doanh nghiệp, không phải với một thực thể u mơ nào đó được gọi là lợi ích công cộng - mặc dù các doanh nghiệp thường cố gắng, hoặc ít nhất làm ra vẻ, hoạt động theo cách có tinh thần vì cái chung vì điều đó là tốt cho doanh nghiệp. Nếu chúng ta chăm nom cho các nguyên lí phổ quát như quyền tự do, dân chủ, pháp trị, chúng ta không thể để chúng cho sự chăm sóc của các lực lượng thị trường; chúng ta phải thiết lập các định chế khác nào đó để bảo vệ chúng.
Tất cả điều này là quá hiển nhiên để phát biểu, thế mà phải được nói ra vì có tín điều được tin một cách rộng rãi là các thị trường sẽ lo liệu cho mọi nhu cầu của chúng ta. Nó thường được gọi là “laissez-faire” ở thế kỉ thứ mười chín, song tôi đã tìm ra được một từ hay hơn: thuyết thị trường chính thống. Những người theo thuyết thị trường chính thống cho rằng lợi ích công được phục vụ tốt nhất khi người dân được phép theo đuổi tư lợi của riêng họ. Đây là một ý tưởng hấp dẫn, nhưng chỉ là một nửa sự thật. Các thị trường là thích hợp tuyệt vời cho theo đuổi lợi ích tư nhân, nhưng chúng không được thiết kế để chăm lo đến lợi ích chung. Duy trì bản thân cơ chế thị trường là một lợi ích chung như vậy. Những người tham gia thị trường cạnh tranh không để duy trì cạnh tranh mà để thắng; nếu có thể, chúng sẽ loại bỏ cạnh tranh.
Bảo vệ lợi ích chung thường là nhiệm vụ của nhà nước quốc gia. Nhưng quyền lực của quốc gia đã co lại do các thị trường vốn toàn cầu được mở rộng. Khi vốn tự do di chuyển, nó có thể bị đánh thuế và điều tiết chỉ với rủi ro xua đuổi nó đi. Vì vốn là thiết yếu cho tạo ra của cải, các chính phủ phải thoả mãn các nhu cầu của nó, thường làm hại đến những cân nhắc khác. Xua đuổi vốn có thể gây hại hơn là đánh thuế và điều tiết có thể gây ra. Điểm này mới đây đã được làm rõ bởi sự thất bại ngoạn mục của Oscar Lafontaine, bộ trưởng tài chính Đức, khi ông thử tăng gánh nặng thuế lên kinh doanh.
Theo cách nào đấy đó là một sự phát triển đáng thú vị. Doanh nghiệp tư nhân tốt hơn nhà nước về tạo ra của cải, và cạnh tranh tự do ở qui mô toàn cầu đã dẫn đến một sự gia tốc về năng suất. Hơn nữa, nhà nước thường lạm dụng quyền lực của mình; toàn cầu hoá cho một mức độ tự do cá nhân mà không nhà nước nào có thể cung cấp.
Nhưng có mặt trái. Năng lực của nhà nước để thực hiện các chức năng mà công dân kì vọng ở nó bị suy yếu. Đây sẽ không phải là một nguyên nhân lo lắng nếu có thể trông mong ở các thị trường tự do để chăm lo mọi nhu cầu, nhưng rõ ràng không phải vậy. Một số nhu cầu tập thể của chúng ta hầu như quá hiển hiên để phải nhắc đến: hoà bình và an ninh, luật và trật tự, quyền con người, bảo vệ môi trường, và yếu tố nào đó về công bằng xã hội. Các giá trị thị trường chỉ bày tỏ cái một người tham gia sẵn lòng trả cho người khác trong trao đổi tự do và không bày tỏ các lợi ích chung của họ. Kết quả là, các giá trị xã hội chỉ được phục vụ bởi những dàn xếp xã hội và chính trị, cho dù chúng ít hiệu quả hơn các thị trường.
Ngay cả để phục vụ các lợi ích cá nhân, cơ chế thị trường có những hạn chế và khuyết tật nhất định mà những người theo thuyết thị trường chính thống bỏ qua. Một là, các thị trường tài chính là bất ổn định một cách cố hữu. Lí thuyết cạnh tranh hoàn hảo coi các đường cung và cầu là cho trước một cách độc lập. Nơi hai đường gặp nhau, ta có cân bằng. Nhưng các giả thiết theo đó khái niệm cân bằng được xây dựng hiếm khi được thoả mãn trong thế giới thực tế. Trong lĩnh vực tài chính chúng là không thể đạt được. Các thị trường tài chính tìm cách chiết khấu tương lai mà tương lai lại tuỳ thuộc vào hiện tại nó được chiết khấu ra sao. Căn cứ vào sự hiểu biết không hoàn hảo của những người tham gia, kết quả là không xác định một cách cố hữu. Như thế, ngược với ý tưởng về một cơ chế tự cân bằng, tính ổn định của các thị trường tài chính cần được bảo vệ bằng chính sách công.
Đáng tiếc, chính sách công cũng không hoàn hảo, và vì thế lịch sử các thị trường tài chính bị ngắt quãng bởi những khủng hoảng. Tuy nhiên, bằng một quá trình thử và sai, các nước công nghiệp tiên tiến đã tạo ra các ngân hàng trung ương và những khung khổ điều tiết rất thành công để giữ sự bất ổn định trong những giới hạn có thể chịu đựng được. Sự sụp đổ lớn lần cuối ở các nước công nghiệp tiên tiến xảy ra vào các năm 1930. Các nước ở ngoại vi của hệ thống tư bản toàn cầu ở vào vị trí không tốt bằng: Khủng hoảng tài chính 1997-1999 gây ra tàn phá ở một số thị trường mới nổi cũng nhiều như Đại Suy thoái của các năm 1930 đã gây ra ở Hoa Kì.
Hệ thống tài chính quốc tế không còn có thể được điều tiết trên cơ sở quốc gia. Một tập các định chế quốc tế được thiết lập vào cuối Chiến tranh Thế giới II ở Bretton Woods năm 1945, nhưng chúng được thiết kế cho một thế giới không có luân chuyển vốn tự do. Các định chế này đã dũng cảm cố thích nghi với hoàn cảnh thay đổi, thế nhưng chúng đã không có khả năng giữ nhịp với sự phát triển nhanh chóng mới đây của các thị trường tài chính quốc tế. Chúng đã không ngăn được sự lây nhiễm trong khủng hoảng tài chính quốc tế 1997-1999. May thay, các nước ở trung tâm của hệ thống tư bản toàn cầu đã không bị ảnh hưởng (thực ra, họ thậm chí còn được lợi từ tai hoạ ở ngoại vi), và nền kinh tế thế giới đã phục hồi nhanh hơn so với có thể dự kiến ở cao điểm của khủng hoảng. Khả năng mau phục hồi xuất sắc này đã củng cố niềm tin vào năng lực tự hiệu chỉnh của các thị trường tài chính, và thay cho tăng cường Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), quyền lực và ảnh hưởng của nó lại bị để cho suy dần. Điều này sẽ để nền kinh tế thế giới dễ bị tổn thương hơn trong khủng hoảng tiếp theo, nếu và khi nó xuất hiện. Nghĩ rằng chúng ta sẽ không có một khủng hoảng khác là đi coi thường lịch sử.
Yếu điểm trong cấu trúc chính trị quốc tế vượt quá khuyết điểm trong cấu trúc tài chính quốc tế. Thảm kịch của Chiến tranh Thế giới II đã dẫn đến việc thiết lập Liên Hiệp Quốc, được thiết kế để duy trì hoà bình và an ninh trên thế giới. Đáng tiếc, thiết kế không ngang với mục đích cao thượng. Ngay khi Liên Hiệp Quốc ra đời, thế giới vỡ thành hai khối đối chọi nhau; một do Hoa Kì, một do Liên Xô lãnh đạo. Hai bên đã kẹt vào cuộc chiến chí tử, cả về quân sự và ý thức hệ; thế nhưng mỗi bên đều nhận ra rằng nó phải tôn trọng các lợi ích sống còn của bên kia, vì cả hai đều có khả năng phá huỷ bên kia bằng vũ khí hạt nhân. Điều này biến Chiến tranh Lạnh thành một công cụ ổn định dựa vào quan niệm dữ tợn song hùng mạnh về sự đảm bảo huỷ diệt lẫn nhau (MAD).
Sự cân bằng MAD giữa Đông và Tây chấm dứt với sự sụp đổ nội bộ của đế chế Soviet. Đã có một giây phút lịch sử khi Liên Hiệp Quốc có thể bắt đầu hoạt động như nó được thiết kế ban đầu, thế mà cơ hội đó đã tuột mất khi các nền dân chủ phương Tây đã không thống nhất được với nhau về xử trí khủng hoảng Bosnia ra sao. Hệ thống trở nên bất ổn định.
Kinh nghiệm của hai cuộc chiến tranh thế giới đã chứng tỏ rằng một hệ thống dựa vào các quốc gia có chủ quyền không đảm bảo hoà bình và ổn định. Vì các nhà nước chủ quyền thường lạm dụng quyền lực của họ, một sự giảm sút về những quyền lực đó phải là một diễn tiến đáng hoan nghênh. Đến điểm này tình cảm ủng hộ thị trường, chống nhà nước là hoàn toàn được biện minh. Nhưng sự yếu đi của nhà nước chủ quyền phải đối ứng với sự tăng cường của các định chế quốc tế. Đây là chỗ mà thuyết thị trường chính thống, phản đối nhà chức trách quốc tế cũng nhiều như nhà chức trách quốc gia, đứng cản đường. Không thể phủ nhận, thuyết thị trường chính thống không phải là thủ phạm duy nhất; niềm tin lâu dài vào chủ quyền quốc gia là thủ phạm khác. Hoa Kì thậm chí gắn bó với chủ quyền của nó mạnh hơn hầu hết các quốc gia khác. Do là siêu cường quân sự duy nhất còn lại và là cường quốc kinh tế mạnh nhất, nó sẵn lòng tham dự vào các dàn xếp, như Tổ chức Thương mại Thế giới, mở cửa các thị trường trong khi lại cung cấp sự bảo hộ nào đó cho các giới thế lực, nhưng nó hết sức chống bất kể vi phạm nào đến chủ quyền của riêng nó trong các lĩnh vực khác. Nó sẵn lòng can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác song lại không sẵn sàng phục tùng các qui tắc mà nó tìm cách áp đặt lên người khác.
Trong khi Hoa Kì coi mình như người giữ vững các nguyên lí cao thượng, những người khác chỉ thấy sự ngạo mạn quyền lực. Có thể gây sốc khi nói, nhưng tôi tin rằng chính thái độ đơn phương của Hoa Kì tạo thành một mối đe doạ nghiêm trọng cho hoà bình và thịnh vượng của thế giới. Thế mà Hoa Kì có thể dễ dàng trở thành một lực lượng hùng hậu cho điều thiện, đơn giản bằng chuyển từ cách tiếp cận đơn phương sang đa phương. Thế giới cần một số qui tắc và tiêu chuẩn ứng xử. Nếu Hoa Kì sẵn sàng tôn trọng các qui tắc, nó có thể dẫn đầu trong việc tạo ra chúng.
Đáng tiếc, sự không ưa chủ nghĩa đa phương của Hoa Kì không phải không có biện minh. Hầu hết các định chế quốc tế không hoạt động tốt. Đó là vì chúng là các hiệp hội các quốc gia, mà như Hồng y Richelieu đã nói, các quốc gia không có các nguyên lí, chỉ có những lợi ích. Điều này được biểu lộ trong ứng xử của họ trong phạm vi các tổ chức quốc tế. Mọi thiếu sót của một bộ máy quan liêu quốc gia, đều được nhân lên trong bộ máy quan liêu quốc tế. Các định chế quốc tế như Liên Hiệp Quốc là không phù hợp để bảo vệ các nguyên lí phổ quát. Điều này có thể thấy trong thành tích bảo vệ nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.
Tôi tin rằng có thể khiến các định chế quốc tế hoạt động tốt hơn chỉ với sự giúp đỡ của xã hội dân sự. Có thể đúng là các quốc gia không có các nguyên lí, nhưng các quốc gia dân chủ đáp ứng lại mong muốn của công dân của mình. Nếu các công dân có các nguyên lí, họ có thể áp đặt chúng lên chính phủ của họ. Đó là vì sao tôi chủ trương một liên minh các quốc gia dân chủ: Nó có thể có sự tham gia tích cực của xã hội dân sự để đảm bảo là các chính phủ vẫn trung thành với các nguyên lí của liên minh. Đó là nơi khó khăn lớn nhất ẩn náu. Như các cuộc biểu tình gần đây ởSeattle và Washington đã chứng tỏ, có thể huy động xã hội dân sự để phản đối các định chế quốc tế; phải tìm được cách để huy động nó ủng hộ chúng.
Liên minh sẽ có hai mục tiêu: thứ nhất, tăng cường luật quốc tế và các định chế quốc tế; thứ hai, củng cố dân chủ trong phạm vi riêng từng nước. Hai mục tiêu, tất nhiên, gắn với nhau: Sự thúc đẩy dân chủ phải được thực hiện bởi các định chế quốc tế. Không một quốc gia đơn nhất có thể được uỷ thác cho việc bảo vệ các nguyên lí phổ quát. Mỗi khi có xung đột giữa các nguyên lí phổ quát và tư lợi, tư lợi chắc thắng thế. Điểm này đã được những người sáng lập hiểu rõ khi họ nghĩ ra Hiến pháp Hoa Kì.
Thế mà cổ vũ phát triển dân chủ trên khắp thế giới chính là lợi ích của tất cả các nền dân chủ. Trong xã hội toàn cầu lệ thuộc lẫn nhau ngày nay hầu hết xung đột không xảy ra giữa các quốc gia mà trong nội bộ các quốc gia. Các nền dân chủ không thể dung thứ sự vi phạm nhân quyền qui mô lớn, và sớm hay muộn chúng có thể bị kéo vào các xung đột như vậy, như xảy ra ở Nam Tư. Ngay cả nếu họ từ chối bị kéo vào, họ phải đối mặt với dòng người tị nạn và các hệ quả có hại khác.
Có sự mâu thuẫn nào đó về áp đặt dân chủ từ bên ngoài. Sự mâu thuẫn có thể được tránh chỉ nếu sự can thiệp mang lại lợi ích và vì vậy được chấp nhận một cách tự nguyện. Ở mức độ lớn nhất có thể, sự can thiệp phải ở dạng những khuyến khích và cam kết xây dựng.
Một khi một xung đột đã nổ ra, sẽ rất khó giải quyết. Phòng ngừa khủng hoảng không thể bắt đầu đủ sớm. Nhưng trong các giai đoạn đầu khó nhận diện cái gì sẽ dẫn đến khủng hoảng. Đó là vì sao cách tốt nhất để phòng ngừa khủng hoảng là cổ vũ sự phát triển của cái mà tôi gọi là các xã hội mở. Đó là cái mạng lưới các Quỹ Xã hội Mở của tôi cố gắng làm. Bằng tạo ra các xã hội mở, khả năng về khủng hoảng cần can thiệp từ bên ngoài có thể giảm đi rất nhiều. Và nếu can thiệp trừng phạt là không thể tránh khỏi nó được biện minh dễ dàng hơn khi trước đó đã có cam kết mang tính xây dựng.
Hiện nay chúng ta dựa quá nhiều vào các biện pháp trừng phạt. Liên minh hiệu quả duy nhất của các quốc gia dân chủ là một liên minh quân sự - Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Chúng ta phải bổ sung cho NATO bằng một liên minh chính trị. Vì sự phát triển của xã hội mở liên hệ chặt chẽ với sự thịnh vượng kinh tế, liên minh phải hướng tới hành động khẳng định.
Các ý nghĩ này đặc biệt thích đáng hiện nay, sau can thiệp của NATO ở Kosovo. Tôi tin can thiệp là cần thiết, nhưng nó phải được biện minh bằng đảm bảo một tương lai tốt hơn cho khu vực. Điều này chỉ có thể đạt được nếu Liên hiệp châu Âu có thể đưa các nước trong khu vực đến gần nhau hơn và đưa chúng đến gần châu Âu hơn. Ý tưởng này hiện nay được chấp nhận rộng rãi, và nó được biểu lộ ở Hiệp ước Ổn định cho Đông Nam Âu. Làm cho nó có kết quả phải là ưu tiên cao nhất của Liên hiệp châu Âu. Nó chắc chắn là ưu tiên cao nhất của tôi.
Đi từ cái cá biệt sang cái chung, tôi chủ trương một nỗ lực có phối hợp bởi các nền dân chủ đã phát triển để cổ vũ cho phát triển dân chủ ở những phần kém phát triển của thế giới. Nó phải có dạng trợ giúp kĩ thuật và khuyến khích kinh tế. Kinh tế học và hoạt động chính trị không thể tách rời nhau. Amartya Sen đã đưa ra lí lẽ thuyết phục rằng phát triển phải được định nghĩa bằng quyền tự do, chứ không bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). [1]
Thành viên của liên minh sẽ bao gồm Hoa Kì và Liên hiệp châu Âu, và một số lượng tới hạn các nước dân chủ từ ngoại vi của hệ thống tư bản – khác đi thì liên minh có thể hoá ra là một công cụ thống trị và bóc lột. Thành viên có vấn đề nhất sẽ là Hoa Kì, vì hiện tại nó không sẵn lòng tuân thủ các qui tắc mà nó tìm cách áp đặt lên người khác. Nó chẳng có gì để sợ loại liên minh mà tôi quan tâm, vì một liên minh như vậy không thể hoạt động mà không có Hoa Kì tham gia; tuy nhiên, nó sẽ đòi hỏi sự định hướng lại triệt để về chính sách của Hoa Kì từ chủ nghĩa đơn phương sang chủ nghĩa đa phương.
Tôi nhận ra là đề xuất của mình trái với thuyết thị trường chính thống. Viện trợ nước ngoài đã thất bại tệ hại ở châu Phi và gần đây ở Liên Xô và các quốc gia kế vị, và nó cũng đe doạ gây thất bại cho Hiệp ước Ổn định. Sự thực rằng chúng không có kết quả không có nghĩa là chúng ta phải từ bỏ ý tưởng. Đúng hơn, chúng ta phải xem xét các lí do thất bại và nghĩ ra những cách hay hơn. Viện trợ nước ngoài, như nó được quản lí hiện nay, quá thường xuyên được hướng tới thoả mãn nhu cầu của các nhà tài trợ, không phải nhu cầu của những người nhận. Tôi có thể khẳng định, dựa trên những kinh nghiệm của riêng tôi ở các nước như Nga, rằng viện trợ bên ngoài có thể có hiệu quả.
Hệ thống tư bản toàn cầu đã tạo ra một sân chơi rất không đều. Lỗ hổng giữa giàu và nghèo ngày càng rộng hơn. Điều này là nguy hiểm, vì một hệ thống không đưa ra hi vọng và lợi ích nào đó cho những người thua nhất định bị phá vỡ bởi các hành động tuyệt vọng. Ngược lại, nếu chúng ta đưa ra những khuyến khích kinh tế cho các nước hăng hái tận dụng chúng, chúng ta tạo ra một công cụ hùng hậu để ngăn ngừa khủng hoảng. Các khuyến khích nuôi dưỡng sự phát triển kinh tế và chính trị; sự thực rằng chúng có thể được rút lại tạo đòn bẩy cái có thể được dùng chống các chính phủ ngoan cố.
Đáng tiếc, cấu trúc tài chính toàn cầu thịnh hành ngày nay hầu như không tạo sự hỗ trợ nào cho những người kém may mắn. Các xu hướng hiện thời đi theo hướng ngược lại. Sau khủng hoảng tài chính vừa qua, ý định là áp đặt kỉ luật thị trường lớn hơn. Nhưng nếu các thị trường là bất ổn định một cách cố hữu, áp đặt kỉ luật thị trường có nghĩa là áp đặt sự bất ổn định – và xã hội có thể chịu sự bất ổn định đến bao nhiêu?
Bây giờ chúng ta có các thị trường tài chính toàn cầu, chúng ta cũng cần một ngân hàng trung ương toàn cầu và các định chế tài chính quốc tế khác mà sứ mệnh rõ ràng của chúng là giữ cho các thị trường tài chính vững vàng, không tròng trành. Nhưng bất kể hoạt động của người cho vay cuối cùng nào cũng gây ra hiểm hoạ đạo đức nào đó, và cuộc chiến hiện thời của những người theo thuyết thị trường chính thống là loại trừ hiểm hoạ đạo đức. Kết quả là giảm qui mô IMF. Không nghi ngờ gì, điều đó sẽ giảm nguy cơ cho vay thái quá đối với các thị trường mới nổi, nhưng theo tôi khủng hoảng tiếp theo có khả năng đến từ hướng ngược lại: từ dòng vốn chảy tới các nước chậm phát triển không thoả đáng.
Uỷ ban Meltzer do Quốc hội Hoa Kì lập ra kiến nghị biến Ngân hàng Thế giới từ một tổ chức cho vay thành một cơ quan cấp trợ cấp cho các nước nghèo nhất thế giới. Đó là một ý tưởng tuyệt vời, nhưng cách mà Uỷ ban Meltzer cố gắng là giảm qui mô Ngân hàng Thế giới và trả lại vốn chưa dùng cho các cổ đông trong một sự chuyển giao lớn nguồn lực từ người nghèo sang người giàu. Tôi tin là vốn chưa được dùng phải được sử dụng có ích hơn bằng cách tăng các hoạt động cho trợ cấp và cấp bảo lãnh của Ngân hàng. Nhưng đó không phải là cái Uỷ ban Meltzer nghĩ tới.
Tôi bày tỏ lí lẽ tương tự liên quan đến Tổ chức Thương mại Thế giới. Có nhu cầu khẩn thiết về các tiêu chuẩn lao động và bảo vệ môi trường. Song các nước nghèo không thể đủ sức làm các việc này. Thay cho các biện pháp trừng phạt, phải có khuyến khích để cho các nước nghèo có khả năng tuân theo.
Một liên minh của các nền dân chủ có thể có nhiều hình thức khác nhau. Nó có thể thử cải cách các định chế hiện hành như Ngân hàng Thế giới hay thậm chí Liên Hiệp Quốc, hoặc nó có thể hoạt động một cách phi chính thức hơn và đề cập các lĩnh vực vấn đề hay các nước đặc thù. Nó có thể có cơ hội tốt hơn để cải tổ Liên Hiệp Quốc so với bất kể nỗ lực trước đây nào, chính xác vì nó có thể hoạt động hoặc trong phạm vi Liên Hiệp Quốc hoặc ngoài Liên Hiệp Quốc nếu các quốc gia thành viên khác từ chối đi cùng. Nhưng liên minh có thể thành công chỉ nếu các thành viên của nó có thể thống nhất giữa họ với nhau. Và điều đó có nghĩa là thiết lập một số qui tắc cơ sở cho một xã hội mở toàn cầu.
Thuật ngữ "xã hội mở-open society" do Henri Bergson đưa ra năm 1932, khi ông xuất bản cuốn sách The Two Sources of Morality and Religion [Hai Nguồn của Đạo đức và Tôn giáo] của ông. Theo Bergson, một nguồn của đạo đức là bộ lạc, nguồn kia là phổ quát. Loại trước tạo ra xã hội đóng, loại sau tạo ra xã hội mở. Khái niệm được Karl Popper phát triển thêm, người đã lí lẽ trong cuốn sách The Open Society and Its Enemies [Xã hội Mở và Những Kẻ thù của Nó] của mình rằng xã hội mở bị đe doạ bởi các ý thức hệ tư tưởng phổ quát cho là mình có chân lí cuối cùng. Ông cho khái niệm xã hội mở một nền tảng nhận thức luận- cụ thể là, sự hiểu hiết không hoàn hảo cố hữu của chúng ta. Các ý thức hệ tư tưởng phổ quát, cho là mình có chân lí cuối cùng, là mối đe doạ xã hội mở vì đòi hỏi của họ có thể được áp đặt chỉ bằng cưỡng bức.
Cách diễn đạt của Bergson có ích để hiểu các xung đột sắc tộc như ở Nam Tư; cách diễn đạt của Popper có ích để làm sáng tỏ các mối đe doạ do các chế độ toàn trị gây ra, như ở nước Đức Nazi và Liên Xô. Trong và sau Chiến tranh Thế giới II, khái niệm xã hội mở có thể được hiểu dễ dàng nhất bằng đối sánh nó với các xã hội đóng dựa trên cơ sở các hệ tư tưởng toàn trị như chủ nghĩa phát xít và cộng sản. Điều này đã đúng cho đến sự sụp đổ của đế chế Soviet năm 1989.
Kể từ đó, tình hình đã thay đổi. Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản không tự động dẫn đến sự thiết lập xã hội mở. Sự phân đôi đơn giản giữa xã hội mở và đóng không còn áp dụng được nữa. Xã hội mở bị đe doạ từ một hướng không ngờ: sự theo đuổi tư lợi không kiềm chế. Chúng ta đã quen nghĩ về quyền lực - ở dạng một chính phủ áp bức hay một ý thức hệ đòi chân lí cuối cùng và tìm cách áp đặt bằng các biện pháp cưỡng bức – như cản trở chủ yếu cho một xã hội mở. Bây giờ hoá ra là thiếu quyền lực và thiếu sự cố kết xã hội có thể cũng làm suy yếu ngang vậy. Sự tan rã của Liên Xô đã chứng tỏ rằng một nhà nước yếu cũng có thể là một mối đe doạ đối với tự do. [2]
Với tư cách một sinh viên sau Chiến tranh Thế giới II, tôi sốt sắng chấp nhận khái niệm xã hội mở của Popper. Như một người Do thái Hungary đầu tiên thoát khỏi sự tiêu diệt của Nazi bằng chấp nhận một nhận dạng giả và sau đó trốn khỏi chủ nghĩa cộng sản bằng di cư, tôi đã học được khi còn trẻ loại tổ chức xã hội nào thịnh hành là quan trọng đến thế nào. Cách phân đôi giữa xã hội mở và đóng của Popper tỏ ra hết sức quan trọng đối với tôi. Nó đã không chỉ làm sáng tỏ thiếu sót căn bản của các hệ tư tưởng toàn trị mà nó cũng soi sáng một số vấn đề triết học cơ bản. Chính triết học của ông đã chỉ dẫn tôi thiết lập mạng lưới các Quỹ Xã hội Mở của tôi.
Tôi đã là một người tham gia tích cực trong cách mạng quét sạch hệ thống Soviet, và kinh nghiệm đã buộc tôi tiến hành xem xét lại kĩ lưỡng khái niệm xã hội mở. Điều đó dẫn tôi đến các khía cạnh triết học của cuốn sách này.
Tôi bắt đầu cuốn sách với việc khảo sát quan hệ giữa tư duy và thực tại. Tôi không lên án chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghĩa lí tưởng; đúng hơn, tôi tìm sự cân đối giữa hai thứ. Đúng là có một thực tại, song nó không hoàn toàn có thể tiếp cận được cho trí tuệ chúng ta. Quan niệm của chúng ta về thế giới có thể xấp xỉ thế giới như nó là, nhưng chẳng bao giờ có thể hoàn toàn tương ứng với nó. Thay vì bàn cãi bản chất của thực tại hay chân lí cuối cùng, tôi coi như điểm xuất phát của mình là sự hiểu biết của chúng ta về thế giới trong đó chúng ta sống là không hoàn hảo một cách cố hữu. Chúng ta là một phần của thế giới chúng ta tìm cách hiểu, và sự hiểu biết không hoàn hảo của chúng ta đóng một vai trò tích cực trong hình thành các sự kiện trong đó chúng ta tham gia vào. Có một tương tác hai chiều giữa sự hiểu biết của chúng ta và các sự kiện này, đưa một yếu tố bất định vào cả hai. Nó bảo đảm rằng chúng ta không thể đặt cơ sở cho các quyết định của mình lên tri thức và rằng các hành động của chúng ta có thể có các hệ quả không dự tính. Hai tác động nuôi dưỡng lẫn nhau. Tôi gọi cơ chế phản hồi hai chiều này là tính phản thân và nó là hòn đá tảng của khung khổ quan niệm của tôi.
Khái niệm phản thân hầu như hiển nhiên, thế mà nó có các hệ luỵ không được chấp nhận một cách phổ biến. Nó tạo ra một sự chia tách giữa các khoa học tự nhiên và xã hội và nó làm xói mòn các giả thiết mà lí thuyết kinh tế đã dựa vào: ứng xử duy lí nói chung, và các kì vọng duy lí nói riêng. Nó đưa ra một diễn giải về các thị trường tài chính hoạt động ra sao khác hoàn toàn cách lí thuyết kinh tế đề xuất. Đó là một trường hợp nơi khung khổ quan niệm của tôi có các hệ luỵ thực tiễn.
Trong cuốn sách này, tôi đi quá sự phê phán các ý tưởng được chấp nhận nói chung. Tôi sử dụng các khái niệm về tính có thể sai (fallibility) và tính phản thân để trình bày một lí thuyết về lịch sử. Tôi diễn giải các thị trường tài chính như một quá trình lịch sử và tôi dùng chúng như một phòng thí nghiệm để kiểm tra lí thuyết của tôi. Thí nghiệm của tôi không tạo ra các kết quả tất định so sánh được với các phương trình xác định cân bằng trong lí thuyết kinh tế. Điều này làm cho diễn giải của tôi là không thể chấp nhận được đối với các nhà kinh tế học, song tôi dám chắc, chấp nhận rằng các thị trường tài chính là không thể tiên đoán được một cách cố hữu, tốt hơn là tôn trọng một lí thuyết sai.
Tôi diễn giải lịch sử như một quá trình phản thân trong đó các quyết định có thiên kiến của những người tham gia tương tác với một thực tại vượt quá sự lĩnh hội của họ. Tương tác có thể là tự-tăng cường hay tự-hiệu chỉnh. Một quá trình tự-tăng cường không thể đi mãi mà không gặp các giới hạn do thực tại đặt ra, nhưng nó có thể đi đủ lâu và đủ xa để gây ra những thay đổi quan trọng trong thế giới thực. Nếu và khi nó trở nên không thể duy trì được, thì nó có thể khởi động một quá trình tự tăng cường theo chiều ngược lại. Các chuỗi boom-bust (hưng thịnh bột phát- lụn bại) như vậy quan sát được một cách rõ ràng trong các thị trường tài chính, nhưng phạm vi, trường độ, và diễn tiến thực sự của chúng vẫn không chắc chắn.
Khi tôi thử áp dụng mô hình boom-bust vào lịch sử nói chung, diễn giải của tôi trở thành mang phong cách riêng và gượng gạo hơn. Tuy nhiên, nó có thể làm sáng tỏ, miễn là nó không được coi là quá nghiêm túc. Đáng tiếc, tôi đã không luôn theo lời khuyên của chính mình, như độc giả sẽ thấy. Nghiêm trọng hơn, tôi cố trình bày một số ý tưởng về xã hội nên được tổ chức ra sao. Tôi phát triển khái niệm về xã hội mở, một hiệp hội của các cá nhân tự do tôn trọng các quyền của nhau trong phạm vi một khung khổ luật pháp. [3]
Thuyết thị trường chính thống không hoàn toàn chống xã hội mở theo cách các ý thức hệ toàn trị như chủ nghĩa phát xít và cộng sản đã chống; đúng hơn, nó thể hiện một sự méo mó về khái niệm, một sự cường điệu quá đáng một trong các khía cạnh của nó. Điều đó chẳng làm cho nó ít nguy hiểm hơn. Thuyết thị trường chính thống gây nguy hiểm cho xã hội mở một cách không cố ý bằng diễn giải sai các thị trường hoạt động ra sao và cho chúng vai trò chi phối quá đáng.
Những người theo thuyết thị trường chính thống tin vào quyền tự do cá nhân, chính là hòn đá tảng của xã hội mở, nhưng họ cường điệu giá trị của cơ chế thị trường. Họ tin rằng các thị trường hiệu quả đảm bảo phân bổ nguồn lực tốt nhất và bất kể can thiệp nào từ nhà nước hay từ các định chế quốc tế, đều có hại. Vì thuyết thị trường chính thống đã trở nên rất có ảnh hưởng, ngày nay nó tạo thành một mối đe doạ lớn hơn đối với xã hội mở toàn cầu so với chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội, vì các hệ tư tưởng đó đã hoàn toàn mất tín nhiệm.
Với tư cách một người chủ trương xã hội mở, tôi muốn làm rõ rằng tôi không chống chủ nghĩa tư bản per se (tự nó). Khái niệm xã hội mở và nền kinh tế thị trường liên kết mật thiết với nhau, và chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã đưa chúng ta đến gần một xã hội mở toàn cầu. Nhưng các thị trường là không hoàn hảo. Chúng có thể chỉ phục vụ cho các nhu cầu cá nhân; chăm lo đến nhu cầu xã hội vượt quá phạm vi của chúng. Và ngay cả như các nhà phân bổ nguồn lực, chúng cũng không hoàn hảo: Các thị trường tài chính là bất ổn định một cách cố hữu. Điều đó không có nghĩa chúng ta phải từ bỏ chủ nghĩa tư bản; đúng hơn, chúng ta phải cố gắng sửa các nhược điểm của nó.
Chủ nghĩa cộng sản đã tìm cách huỷ bỏ cơ chế thị trường và áp đặt kiểm soát tập thể lên mọi hoạt động kinh tế. Thuyết thị trường chính thống tìm cách huỷ bỏ đi quyết định tập thể và áp đặt uy quyền tối cao của các giá trị thị trường lên trên tất cả các giá trị chính trị và xã hội. Cả hai thái cực đều sai. Chúng ta cần nhận ra rằng tất cả mọi kiến trúc của con người đều có sai sót. Sự hoàn thiện nằm ngoài tầm với của chúng ta. Chúng ta phải tự thoả mãn với cái tốt thứ nhì: một xã hội không hoàn hảo tự để mở cho sự cải thiện. Chủ nghĩa tư bản toàn cầu rất cần cải thiện.
Đây không phải là một tóm tắt đầy đủ của cuốn sách của tôi. Thí dụ, tôi đã không nhắc đến sự phân biệt tôi đưa ra giữa làm luật và chơi theo luật. Nhưng đã nói đủ để cho biết là cuốn sách nhằm bao phủ nhiều lĩnh vực - có lẽ quá nhiều lĩnh vực. Có thể hiệu quả hơn để tập trung vào ít điểm hơn, nhưng khung khổ quan niệm gắn bó với nhau và tôi thấy khó đưa ra một điểm mà không có các điểm khác. Tôi coi điều này là một điểm yếu trong cấu trúc cuốn sách, vì dưới ánh sáng của giả thuyết công tác của tôi về tính có thể sai triệt để, không chắc là tất cả các điểm của tôi có sức thuyết phục ngang nhau.
Điểm yếu không là cố hữu trong lí lẽ, vì các điểm khác nhau không phụ thuộc logic vào nhau; đúng hơn, nó là kết quả của sự ưa thích cá nhân của tôi. Ở mức cá nhân, cuốn sách này là công trình của đời tôi. Tôi đã bắt đầu nó khi tôi là một sinh viên và vẫn chưa hoàn thành nó. Tôi không sẵn lòng buông tha nó. Nhiều điểm tôi nêu ra ở đây tôi đã đưa ra trước kia, nhưng tôi vẫn cảm thấy tôi có thể làm cho chúng tốt hơn.
Tôi có một ông cậu bên vợ, Tamas Losonczy, một hoạ sĩ theo xu hướng biểu hiện trừu tượng suốt đời ông ởHungary . Chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng đã không được phép ở Hungary cho đến khá gần đây. Kết quả là, ông đã cảm thấy phải buộc lặp lại các chủ đề chính của ông trong tất cả các bức vẽ của ông. Điều này làm cho tranh của ông lộn xộn và phức tạp hơn tranh của các bậc thầy của xu hướng biểu hiện trừu tượng ở phương Tây. Tôi cảm nhận về triết học theo cách như ông về hội hoạ, và tôi sợ là tôi mắc cùng triệu chứng: Tôi cảm thấy buộc phải lặp lại những lí lẽ tôi đã đưa ra trong các cuốn sách trước, vì tôi không cảm thấy rằng các điểm của tôi được trình bày khúc chiết. Tôi có thể sai. Tuyên bố của tôi rằng tính phản thân không được nhận ra trong lí thuyết kinh tế có thể đã đúng vào năm 1987, khi tôi xuất bản cuốn The Alchemy of Finance [Giả kim thuật Tài chính] lần đầu tiên, nhưng tôi đã bị một số kinh tế gia phê bình rằng điều đó không còn đúng nữa. Thế mà tôi có thể thấy từ phê bình của họ là điểm chủ yếu của tính phản thân - cụ thể là, các thị trường tài chính là không thể tiên đoán được một cách cố hữu - nói chung vẫn chưa được chấp nhận, vì họ trách tôi do đã không tạo ra một lí thuyết có khả năng đưa ra các tiên đoán hợp lệ.
Sự thực rằng tôi đã nhồi các ý tưởng chính suốt cả cuộc đời vào cuốn sách này chẳng làm cho nó dễ đọc. Tôi hi vọng, tuy vậy, là đáng nỗ lực. Ở mức bàn luận công khai, tôi tin tôi có một số đóng góp xứng đáng. Ngoài khái niệm về xã hội mở và đề xuất cho một liên minh các nền dân chủ, tôi nhắc tới:
Khái niệm về tính phản thân;
Giả thuyết công tác về tính có thể sai triệt để;
Đánh giá sự tách giữa các khoa học tự nhiên và xã hội;
Phê phán lí thuyết cân bằng trong kinh tế học và phác hoạ một hệ thuyết mới;
Thảo luận những cách mà các giá trị thị trường thâm nhập vào các lĩnh vực mà chúng đúng không thuộc về;
Phê phán thuyết thị trường chính thống;
Khái niệm về các tình huống xa cân bằng;
Khái niệm lầm lạc màu mỡ;
Diễn giải các thị trường tài chính như một quá trình lịch sử trong đó kết quả khác với những kì vọng;
Phân biệt giữa làm luật và chơi theo luật và định đề rằng trong tham gia chính trị (khác biệt với tham gia thị trường) chúng ta phải được chỉ dẫn bởi quan niệm của chúng ta về lợi ích chung dù cho những người khác không làm thế;
Khảo sát tỉ mỉ sự khác biệt giữa trung tâm và ngoại vi trong hệ thống tư bản toàn cầu;
Khảo sát cấu trúc tài chính và chính trị toàn cầu mới.
Những khó khăn do cuốn sách này để lộ ra trở nên trầm trọng hơn bởi cách nó được viết. Khởi nguyên nó là một bài báo tôi công bố ở số tháng Hai 1997 của The Atlantic Monthly dưới tiêu đề “The Capitalist Threat: Mối đe doạ Tư bản chủ nghĩa”. Sự thực rằng một nhà tư bản nguyên mẫu đi phê phán chủ nghĩa tư bản đã gây ra sự xôn xao đáng kể, và tôi đã quyết định mở rộng bài báo thành một cuốn sách. Khi tôi đang viết, một cuộc khủng hoảng tài chính lớn thuộc loại tôi đã cảnh báo chống lại đã nổ ra tháng Bảy 1997, và tôi cảm thấy tôi có cái gì đó khẩn cấp và quan trọng để nói về chủ đề. Khi Nga vỡ nợ nội địa của nó tháng Tám 1998, tôi đã nghĩ hệ thống tư bản toàn cầu sắp tan vỡ, và vì thế tôi đã quyết định vội đưa cuốn sách đi in.
Cuốn sách được xuất bản tháng Mười Một 1998 với tiêu đề The Crisis of Global Capitalism: Open Society Endangered [Khủng hoảng của Chủ nghĩa Tư bản Toàn cầu: Xã hội Mở bị Lâm nguy]. Khi đến lúc chuẩn bị lần xuất bản bìa mềm, tôi bắt đầu sửa lại nó, và sự sửa lại mau chóng trở nên quan trọng đến mức đủ tư cách như một cuốn sách mới. Tôi quyết định xuất bản nó dưới một tiêu đề mới.
Nhìn lại, tôi đã sai khi tiên đoán thảm hoạ, và bây giờ tôi hơi ngớ mặt ra. Nhìn lại từ viễn cảnh của năm 2000, hình như là tôi đã phạm phải hai tính nhầm chủ yếu. Một là sự đánh giá thấp năng lực của các nhà chức trách tài chính để ngăn chặn tai hoạ khi nó đe doạ trung tâm của hệ thống tư bản toàn cầu. Rốt cuộc, tôi đã nhấn mạnh sự cách biệt giữa trung tâm và ngoại vi. Sự thực rằng Cục Dự trữ Liên bang đã thành công trong bảo vệ nền kinh tế Hoa Kì trong khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã thất bại trong bảo vệ các nền kinh tế ở ngoại vi là một sự biểu hiện của sự cách biệt đó. Tôi đã phải có khả năng thấy trước điều đó.
Tính toán sai thứ hai đã là bỏ qua ảnh hưởng của cách mạng công nghệ. Rõ ràng, nó đã là một nhân tố chủ yếu cho phép trung tâm giũ sạch những rắc rối ở ngoại vi. Đã có một Internet boomxảy ra đồng thời với bust ở các thị trường mới nổi. Làm sao tôi có thể bỏ qua điều đó? Tôi đã bị lầm đường bởi sự thực rằng những tiến bộ công nghệ - đường sắt, điện, điện thoại - đã xảy ra trong thế kỉ mười chín, thời kì bản thân nó là một giai đoạn của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Dù sao công nghệ cũng đã gây ra các boom và bust trong những ngày ấy. Đây là một sai lầm lớn trong phân tích của tôi, sai lầm mà tôi không thể có khả năng xoá đi mà không làm giả tư liệu lịch sử. Tôi có thể, tuy vậy, thừa nhận nó.
Bất chấp những sai lầm này, tôi cảm thấy có đủ giá trị trong cách tiếp cận của tôi để biện minh cho việc sửa cuốn sách. Lần đầu tiên trong đời tôi, các ý tưởng của tôi nhận được sự chú ý phê phán, và tôi đã được lợi nhiều từ nó. Vì sự thừa nhận sai lầm nằm ở tâm của cách tiếp cận của tôi, tôi đưa tất cả phê phán mà tôi coi là hợp lí vào. Tôi cũng đã chuyển tầm quan trọng từ tài chính sang chính trị. Cuốn The Crisis of Global Capitalism thu hút sự chú ý chủ yếu vì cái tôi đã nói về khủng hoảng tài chính. Điều này có thể hiểu được theo quan điểm của tình hình thịnh hành lúc đó và sự khét tiếng của tôi như nhà đầu cơ tài chính. Thảo luận của tôi về cái tôi gọi là “khu vực phi thị trường” gợi ra ít phản ứng hơn nhiều. Khi tôi sửa cuốn sách, tôi cảm thấy rất cấp thiết để trau chuốt các ý tưởng của tôi về cấu trúc chính trị và an ninh toàn cầu ở mức sâu hơn nhiều.
Việc sửa làm nảy sinh một vấn đề: Nếu tôi sửa đổi phân tích ban đầu của tôi về khủng hoảng 1997-1999, tôi sẽ giả mạo tư liệu lịch sử. Do đó, trong phần của cuốn sách đề cập đến khủng hoảng 1997-1999, tôi quyết định để nguyên văn bản ban đầu và chỉ ra ở đâu tôi đã sửa lại. Giải pháp này làm cho cấu trúc của cuốn sách cồng kềnh hơn.
Để bù cho điều này, tôi muốn cung cấp một lộ trình đơn giản. Trong Chương 1, tôi bắt đầu với tính phản thân và tính có thể sai. Điều này dẫn tôi đến thảo luận về phương pháp khoa học ở Chương 2.
Trong Chương 3, tôi kiểm tra tính hợp lệ và tính thoả đáng của tính phản thân trong phòng thí nghiệm của các thị trường tài chính, dựa chủ yếu vào nội dung lấy từ cuốn The Alchemy of Finance của tôi trước đây.
Trong Chương 4, tôi thử phát triển một lí thuyết về lịch sử dựa vào quan hệ phản thân giữa tư duy của những người tham gia và các sự kiện trong đó họ tham gia vào. Tính có thể sai làm cho cân bằng là không thể, để lại ba khả năng: gần cân bằng của xã hội mở; bất cân bằng tĩnh của xã hội đóng; và bất cân bằng động của sự thay đổi chế độ mang tính cách mạng. Điều này dẫn đến thảo luận về xã hội mở như một lí tưởng ở Chương 5. Trong Chương 6, tôi thảo luận vấn đề các giá trị xã hội và đưa ra sự phân biệt giữa làm luật và chơi theo luật. Khung khổ lí thuyết hoàn tất ở đây.
Phần II áp dụng khung khổ lí thuyết cho thời điểm hiện tại của lịch sử. Nhưng thời gian không đứng yên. Như đã nhắc tới ở trước, tôi bắt đầu viết The Crisis of Global Capitalism trước khi khủng hoảng tài chính 1997-1999 nổ ra; tôi vội đưa sách đi in đúng khi khủng hoảng lên đỉnh điểm và đã nghĩ lại và sửa lại nó cẩn thận kể từ đó: Tất cả điều này được phản ánh trong văn bản. Chương 7 cho một tổng quan mang tính phê phán về hệ thống tư bản toàn cầu. Chương 8 đề cập khủng hoảng tài chính 1997-1999. Chương 9 xem xét lại thất bại của Nga để tiến hành chuyển đổi từ xã hội đóng sang xã hội mở. Chương 10 khảo sát cấu trúc tài chính toàn cầu và đưa ra vài gợi ý liên quan đến những cải thiện khả dĩ. Chương 11 đề cập cấu trúc chính trị toàn cầu trong khung cảnh một trường hợp trắc nghiệm: sự tan rã của Nam Tư. Và chương 12 khảo sát các triển vọng của một xã hội mở toàn cầu.
Vì tính chính xác lịch sử, tôi giữ văn bản của Chương 7 và 8 cơ bản không thay đổi, chỉ ra nơi quan điểm của tôi đã thay đổi. Các chương còn lại bày tỏ quan điểm hiện thời của tôi.
Nơi văn bản vẫn như cũ, vì tôi không thể cải thiện nó. Tôi vẫn cởi mở cho sự phê phán, tuy vậy, tôi sẵn sàng tiến hành sửa lại nữa. Tôi đã muốn tiếp tục trau chuốt cuốn sách, nhưng cuối cùng một thời hạn khác lại đến và tôi lại phải vội đưa nó đến nhà in. Như tôi đã nói ở trước, tôi coi cuốn sách này là công trình của đời tôi và tôi tiếp tục phát triển nó chừng nào tôi còn sống.
Chú thích:
[1] Amartya Sen, Development as Freedom (New York: Alfred A. Knopf, 1999). Tiếng Việt Phát triển là Quyền tự do (Viện QLKT TW, NXB Thống kê 2002).
[2] Stephen Holmes, “WhatRussia Teaches Us Now: How Weak States Threaten Freedom,” The American Prospect (July-August 1997): 30-39.
[3] Bryan Magee, Confession of a Philosopher: A Personal Journey Through Western Philosophy from Plato to Popper (New York: Random House, 1999), p. 119.
Ở mức thực tiễn, tôi đã thiết lập một mạng lưới các quỹ từ thiện nhằm cổ vũ cho các xã hội mở. Mạng lưới này bao trùm tất cả các nước của đế chế Soviet trước kia và nó đã lan sang những phần khác của thế giới: Nam Phi, mười nước
Tôi có được sự công nhận rộng rãi, thực ra bị cường điệu, như một loại guru tài chính nào đó, nhưng những thành tích của tôi do giữ các quan điểm về các vấn đề chính trị và an ninh được công nhận ít rõ hơn. Thực ra, tôi chỉ là một trong nhiều người hành nghề tài chính; song tôi hầu như là người duy nhất thực hành ngăn chặn khủng hoảng một cách có mục đích và có tổ chức.
Trong cuốn sách này tôi chủ trương rằng các nền dân chủ trên thế giới nên thiết lập một liên minh với mục đích kép, thứ nhất, để cổ vũ cho phát triển các xã hội mở ở riêng từng nước và, thứ hai, để củng cố luật pháp và các định chế quốc tế cần thiết cho một xã hội mở toàn cầu.
Chúng ta sống trong một thế giới được đặc trưng bởi trao đổi tự do về hàng hoá và dịch vụ và thậm chí còn hơn bởi sự di chuyển tự do của vốn. Kết quả là, lãi suất, tỉ giá hối đoái, và giá cổ phiếu ở nhiều nước khác nhau gắn kết chặt chẽ với nhau, và các thị trường tài chính có ảnh hưởng ghê gớm đến tình hình kinh tế ở mọi nơi. Vốn tài chính có được một vị trí đặc ân. Vốn dễ lưu động hơn các yếu tố sản xuất khác, và vốn tài chính thậm chí còn lưu động hơn các dạng khác của vốn. Toàn cầu hoá các thị trường tài chính đã làm giảm khả năng của các nước riêng biệt để đánh thuế và điều tiết vốn vì nó có thể chuyển sang chỗ khác. Căn cứ vào vai trò quyết định mà vốn tài chính quốc tế đóng trong vận may của các nước riêng biệt, nên không phải không thích hợp để nói về một hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu.
Chúng ta có thể nói về thắng lợi của chủ nghĩa tư bản trên thế giới, song chúng ta chưa thể nói về thắng lợi của dân chủ. Có một sự không xứng đôi nghiêm trọng giữa tình hình chính trị và kinh tế thịnh hành trên thế giới ngày nay. Chúng ta có một nền kinh tế toàn cầu, song những dàn xếp chính trị vẫn dựa vững chắc vào chủ quyền quốc gia. Làm sao có thể dung hoà nhu cầu của một xã hội toàn cầu với các quốc gia có chủ quyền? Đó là vấn đề cốt yếu đối mặt với chúng ta ngày nay.
Chủ nghĩa tư bản và dân chủ không nhất thiết gắn bó chặt chẽ với nhau. Có tương quan nào đó: Tăng các tiêu chuẩn sống và sự hình thành một tầng lớp trung lưu có xu hướng tạo áp lực cho quyền tự do và dân chủ; chúng cũng có xu hướng ủng hộ ổn định chính trị lớn hơn. Song mối liên hệ còn xa mới là tự động. Các chế độ áp bức không nới lỏng sự kìm kẹp của chúng về quyền lực một cách tự nguyện, và chúng thường được trợ giúp và tiếp tay bởi các giới kinh doanh, cả nước ngoài và nội địa. Chúng ta có thể thấy điều này ở nhiều nước, đặc biệt ở những nơi dính đến tài nguyên thiên nhiên như dầu hay kim cương. Có lẽ mối đe doạ lớn nhất đối với quyền tự do và dân chủ trên thế giới ngày nay là từ sự hình thành các liên minh tội lỗi giữa chính phủ và giới kinh doanh.
Đây không phải là hiện tượng mới. Nó thường được gọi là chủ nghĩa phát xít, và nó đặc trưng cho
Chủ nghĩa tư bản rất thành công trong tạo ra của cải, song chúng ta không thể dựa vào nó để đảm bảo tự do, dân chủ, và pháp trị. Kinh doanh có động cơ là lợi nhuận; nó không được thiết kế để bảo vệ các nguyên lí phổ quát. Hầu hết những người kinh doanh là các công dân ngay thẳng; nhưng điều đó không làm thay đổi sự thực là kinh doanh được tiến hành vì lợi lộc tư nhân chứ không vì lợi ích công cộng. Trách nhiệm hàng đầu của ban quản lí là với các chủ doanh nghiệp, không phải với một thực thể u mơ nào đó được gọi là lợi ích công cộng - mặc dù các doanh nghiệp thường cố gắng, hoặc ít nhất làm ra vẻ, hoạt động theo cách có tinh thần vì cái chung vì điều đó là tốt cho doanh nghiệp. Nếu chúng ta chăm nom cho các nguyên lí phổ quát như quyền tự do, dân chủ, pháp trị, chúng ta không thể để chúng cho sự chăm sóc của các lực lượng thị trường; chúng ta phải thiết lập các định chế khác nào đó để bảo vệ chúng.
Tất cả điều này là quá hiển nhiên để phát biểu, thế mà phải được nói ra vì có tín điều được tin một cách rộng rãi là các thị trường sẽ lo liệu cho mọi nhu cầu của chúng ta. Nó thường được gọi là “laissez-faire” ở thế kỉ thứ mười chín, song tôi đã tìm ra được một từ hay hơn: thuyết thị trường chính thống. Những người theo thuyết thị trường chính thống cho rằng lợi ích công được phục vụ tốt nhất khi người dân được phép theo đuổi tư lợi của riêng họ. Đây là một ý tưởng hấp dẫn, nhưng chỉ là một nửa sự thật. Các thị trường là thích hợp tuyệt vời cho theo đuổi lợi ích tư nhân, nhưng chúng không được thiết kế để chăm lo đến lợi ích chung. Duy trì bản thân cơ chế thị trường là một lợi ích chung như vậy. Những người tham gia thị trường cạnh tranh không để duy trì cạnh tranh mà để thắng; nếu có thể, chúng sẽ loại bỏ cạnh tranh.
Bảo vệ lợi ích chung thường là nhiệm vụ của nhà nước quốc gia. Nhưng quyền lực của quốc gia đã co lại do các thị trường vốn toàn cầu được mở rộng. Khi vốn tự do di chuyển, nó có thể bị đánh thuế và điều tiết chỉ với rủi ro xua đuổi nó đi. Vì vốn là thiết yếu cho tạo ra của cải, các chính phủ phải thoả mãn các nhu cầu của nó, thường làm hại đến những cân nhắc khác. Xua đuổi vốn có thể gây hại hơn là đánh thuế và điều tiết có thể gây ra. Điểm này mới đây đã được làm rõ bởi sự thất bại ngoạn mục của Oscar Lafontaine, bộ trưởng tài chính Đức, khi ông thử tăng gánh nặng thuế lên kinh doanh.
Theo cách nào đấy đó là một sự phát triển đáng thú vị. Doanh nghiệp tư nhân tốt hơn nhà nước về tạo ra của cải, và cạnh tranh tự do ở qui mô toàn cầu đã dẫn đến một sự gia tốc về năng suất. Hơn nữa, nhà nước thường lạm dụng quyền lực của mình; toàn cầu hoá cho một mức độ tự do cá nhân mà không nhà nước nào có thể cung cấp.
Nhưng có mặt trái. Năng lực của nhà nước để thực hiện các chức năng mà công dân kì vọng ở nó bị suy yếu. Đây sẽ không phải là một nguyên nhân lo lắng nếu có thể trông mong ở các thị trường tự do để chăm lo mọi nhu cầu, nhưng rõ ràng không phải vậy. Một số nhu cầu tập thể của chúng ta hầu như quá hiển hiên để phải nhắc đến: hoà bình và an ninh, luật và trật tự, quyền con người, bảo vệ môi trường, và yếu tố nào đó về công bằng xã hội. Các giá trị thị trường chỉ bày tỏ cái một người tham gia sẵn lòng trả cho người khác trong trao đổi tự do và không bày tỏ các lợi ích chung của họ. Kết quả là, các giá trị xã hội chỉ được phục vụ bởi những dàn xếp xã hội và chính trị, cho dù chúng ít hiệu quả hơn các thị trường.
Ngay cả để phục vụ các lợi ích cá nhân, cơ chế thị trường có những hạn chế và khuyết tật nhất định mà những người theo thuyết thị trường chính thống bỏ qua. Một là, các thị trường tài chính là bất ổn định một cách cố hữu. Lí thuyết cạnh tranh hoàn hảo coi các đường cung và cầu là cho trước một cách độc lập. Nơi hai đường gặp nhau, ta có cân bằng. Nhưng các giả thiết theo đó khái niệm cân bằng được xây dựng hiếm khi được thoả mãn trong thế giới thực tế. Trong lĩnh vực tài chính chúng là không thể đạt được. Các thị trường tài chính tìm cách chiết khấu tương lai mà tương lai lại tuỳ thuộc vào hiện tại nó được chiết khấu ra sao. Căn cứ vào sự hiểu biết không hoàn hảo của những người tham gia, kết quả là không xác định một cách cố hữu. Như thế, ngược với ý tưởng về một cơ chế tự cân bằng, tính ổn định của các thị trường tài chính cần được bảo vệ bằng chính sách công.
Đáng tiếc, chính sách công cũng không hoàn hảo, và vì thế lịch sử các thị trường tài chính bị ngắt quãng bởi những khủng hoảng. Tuy nhiên, bằng một quá trình thử và sai, các nước công nghiệp tiên tiến đã tạo ra các ngân hàng trung ương và những khung khổ điều tiết rất thành công để giữ sự bất ổn định trong những giới hạn có thể chịu đựng được. Sự sụp đổ lớn lần cuối ở các nước công nghiệp tiên tiến xảy ra vào các năm 1930. Các nước ở ngoại vi của hệ thống tư bản toàn cầu ở vào vị trí không tốt bằng: Khủng hoảng tài chính 1997-1999 gây ra tàn phá ở một số thị trường mới nổi cũng nhiều như Đại Suy thoái của các năm 1930 đã gây ra ở Hoa Kì.
Hệ thống tài chính quốc tế không còn có thể được điều tiết trên cơ sở quốc gia. Một tập các định chế quốc tế được thiết lập vào cuối Chiến tranh Thế giới II ở Bretton Woods năm 1945, nhưng chúng được thiết kế cho một thế giới không có luân chuyển vốn tự do. Các định chế này đã dũng cảm cố thích nghi với hoàn cảnh thay đổi, thế nhưng chúng đã không có khả năng giữ nhịp với sự phát triển nhanh chóng mới đây của các thị trường tài chính quốc tế. Chúng đã không ngăn được sự lây nhiễm trong khủng hoảng tài chính quốc tế 1997-1999. May thay, các nước ở trung tâm của hệ thống tư bản toàn cầu đã không bị ảnh hưởng (thực ra, họ thậm chí còn được lợi từ tai hoạ ở ngoại vi), và nền kinh tế thế giới đã phục hồi nhanh hơn so với có thể dự kiến ở cao điểm của khủng hoảng. Khả năng mau phục hồi xuất sắc này đã củng cố niềm tin vào năng lực tự hiệu chỉnh của các thị trường tài chính, và thay cho tăng cường Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), quyền lực và ảnh hưởng của nó lại bị để cho suy dần. Điều này sẽ để nền kinh tế thế giới dễ bị tổn thương hơn trong khủng hoảng tiếp theo, nếu và khi nó xuất hiện. Nghĩ rằng chúng ta sẽ không có một khủng hoảng khác là đi coi thường lịch sử.
Yếu điểm trong cấu trúc chính trị quốc tế vượt quá khuyết điểm trong cấu trúc tài chính quốc tế. Thảm kịch của Chiến tranh Thế giới II đã dẫn đến việc thiết lập Liên Hiệp Quốc, được thiết kế để duy trì hoà bình và an ninh trên thế giới. Đáng tiếc, thiết kế không ngang với mục đích cao thượng. Ngay khi Liên Hiệp Quốc ra đời, thế giới vỡ thành hai khối đối chọi nhau; một do Hoa Kì, một do Liên Xô lãnh đạo. Hai bên đã kẹt vào cuộc chiến chí tử, cả về quân sự và ý thức hệ; thế nhưng mỗi bên đều nhận ra rằng nó phải tôn trọng các lợi ích sống còn của bên kia, vì cả hai đều có khả năng phá huỷ bên kia bằng vũ khí hạt nhân. Điều này biến Chiến tranh Lạnh thành một công cụ ổn định dựa vào quan niệm dữ tợn song hùng mạnh về sự đảm bảo huỷ diệt lẫn nhau (MAD).
Sự cân bằng MAD giữa Đông và Tây chấm dứt với sự sụp đổ nội bộ của đế chế Soviet. Đã có một giây phút lịch sử khi Liên Hiệp Quốc có thể bắt đầu hoạt động như nó được thiết kế ban đầu, thế mà cơ hội đó đã tuột mất khi các nền dân chủ phương Tây đã không thống nhất được với nhau về xử trí khủng hoảng Bosnia ra sao. Hệ thống trở nên bất ổn định.
Kinh nghiệm của hai cuộc chiến tranh thế giới đã chứng tỏ rằng một hệ thống dựa vào các quốc gia có chủ quyền không đảm bảo hoà bình và ổn định. Vì các nhà nước chủ quyền thường lạm dụng quyền lực của họ, một sự giảm sút về những quyền lực đó phải là một diễn tiến đáng hoan nghênh. Đến điểm này tình cảm ủng hộ thị trường, chống nhà nước là hoàn toàn được biện minh. Nhưng sự yếu đi của nhà nước chủ quyền phải đối ứng với sự tăng cường của các định chế quốc tế. Đây là chỗ mà thuyết thị trường chính thống, phản đối nhà chức trách quốc tế cũng nhiều như nhà chức trách quốc gia, đứng cản đường. Không thể phủ nhận, thuyết thị trường chính thống không phải là thủ phạm duy nhất; niềm tin lâu dài vào chủ quyền quốc gia là thủ phạm khác. Hoa Kì thậm chí gắn bó với chủ quyền của nó mạnh hơn hầu hết các quốc gia khác. Do là siêu cường quân sự duy nhất còn lại và là cường quốc kinh tế mạnh nhất, nó sẵn lòng tham dự vào các dàn xếp, như Tổ chức Thương mại Thế giới, mở cửa các thị trường trong khi lại cung cấp sự bảo hộ nào đó cho các giới thế lực, nhưng nó hết sức chống bất kể vi phạm nào đến chủ quyền của riêng nó trong các lĩnh vực khác. Nó sẵn lòng can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác song lại không sẵn sàng phục tùng các qui tắc mà nó tìm cách áp đặt lên người khác.
Trong khi Hoa Kì coi mình như người giữ vững các nguyên lí cao thượng, những người khác chỉ thấy sự ngạo mạn quyền lực. Có thể gây sốc khi nói, nhưng tôi tin rằng chính thái độ đơn phương của Hoa Kì tạo thành một mối đe doạ nghiêm trọng cho hoà bình và thịnh vượng của thế giới. Thế mà Hoa Kì có thể dễ dàng trở thành một lực lượng hùng hậu cho điều thiện, đơn giản bằng chuyển từ cách tiếp cận đơn phương sang đa phương. Thế giới cần một số qui tắc và tiêu chuẩn ứng xử. Nếu Hoa Kì sẵn sàng tôn trọng các qui tắc, nó có thể dẫn đầu trong việc tạo ra chúng.
Đáng tiếc, sự không ưa chủ nghĩa đa phương của Hoa Kì không phải không có biện minh. Hầu hết các định chế quốc tế không hoạt động tốt. Đó là vì chúng là các hiệp hội các quốc gia, mà như Hồng y Richelieu đã nói, các quốc gia không có các nguyên lí, chỉ có những lợi ích. Điều này được biểu lộ trong ứng xử của họ trong phạm vi các tổ chức quốc tế. Mọi thiếu sót của một bộ máy quan liêu quốc gia, đều được nhân lên trong bộ máy quan liêu quốc tế. Các định chế quốc tế như Liên Hiệp Quốc là không phù hợp để bảo vệ các nguyên lí phổ quát. Điều này có thể thấy trong thành tích bảo vệ nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.
Tôi tin rằng có thể khiến các định chế quốc tế hoạt động tốt hơn chỉ với sự giúp đỡ của xã hội dân sự. Có thể đúng là các quốc gia không có các nguyên lí, nhưng các quốc gia dân chủ đáp ứng lại mong muốn của công dân của mình. Nếu các công dân có các nguyên lí, họ có thể áp đặt chúng lên chính phủ của họ. Đó là vì sao tôi chủ trương một liên minh các quốc gia dân chủ: Nó có thể có sự tham gia tích cực của xã hội dân sự để đảm bảo là các chính phủ vẫn trung thành với các nguyên lí của liên minh. Đó là nơi khó khăn lớn nhất ẩn náu. Như các cuộc biểu tình gần đây ở
Liên minh sẽ có hai mục tiêu: thứ nhất, tăng cường luật quốc tế và các định chế quốc tế; thứ hai, củng cố dân chủ trong phạm vi riêng từng nước. Hai mục tiêu, tất nhiên, gắn với nhau: Sự thúc đẩy dân chủ phải được thực hiện bởi các định chế quốc tế. Không một quốc gia đơn nhất có thể được uỷ thác cho việc bảo vệ các nguyên lí phổ quát. Mỗi khi có xung đột giữa các nguyên lí phổ quát và tư lợi, tư lợi chắc thắng thế. Điểm này đã được những người sáng lập hiểu rõ khi họ nghĩ ra Hiến pháp Hoa Kì.
Thế mà cổ vũ phát triển dân chủ trên khắp thế giới chính là lợi ích của tất cả các nền dân chủ. Trong xã hội toàn cầu lệ thuộc lẫn nhau ngày nay hầu hết xung đột không xảy ra giữa các quốc gia mà trong nội bộ các quốc gia. Các nền dân chủ không thể dung thứ sự vi phạm nhân quyền qui mô lớn, và sớm hay muộn chúng có thể bị kéo vào các xung đột như vậy, như xảy ra ở Nam Tư. Ngay cả nếu họ từ chối bị kéo vào, họ phải đối mặt với dòng người tị nạn và các hệ quả có hại khác.
Có sự mâu thuẫn nào đó về áp đặt dân chủ từ bên ngoài. Sự mâu thuẫn có thể được tránh chỉ nếu sự can thiệp mang lại lợi ích và vì vậy được chấp nhận một cách tự nguyện. Ở mức độ lớn nhất có thể, sự can thiệp phải ở dạng những khuyến khích và cam kết xây dựng.
Một khi một xung đột đã nổ ra, sẽ rất khó giải quyết. Phòng ngừa khủng hoảng không thể bắt đầu đủ sớm. Nhưng trong các giai đoạn đầu khó nhận diện cái gì sẽ dẫn đến khủng hoảng. Đó là vì sao cách tốt nhất để phòng ngừa khủng hoảng là cổ vũ sự phát triển của cái mà tôi gọi là các xã hội mở. Đó là cái mạng lưới các Quỹ Xã hội Mở của tôi cố gắng làm. Bằng tạo ra các xã hội mở, khả năng về khủng hoảng cần can thiệp từ bên ngoài có thể giảm đi rất nhiều. Và nếu can thiệp trừng phạt là không thể tránh khỏi nó được biện minh dễ dàng hơn khi trước đó đã có cam kết mang tính xây dựng.
Hiện nay chúng ta dựa quá nhiều vào các biện pháp trừng phạt. Liên minh hiệu quả duy nhất của các quốc gia dân chủ là một liên minh quân sự - Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Chúng ta phải bổ sung cho NATO bằng một liên minh chính trị. Vì sự phát triển của xã hội mở liên hệ chặt chẽ với sự thịnh vượng kinh tế, liên minh phải hướng tới hành động khẳng định.
Các ý nghĩ này đặc biệt thích đáng hiện nay, sau can thiệp của NATO ở Kosovo. Tôi tin can thiệp là cần thiết, nhưng nó phải được biện minh bằng đảm bảo một tương lai tốt hơn cho khu vực. Điều này chỉ có thể đạt được nếu Liên hiệp châu Âu có thể đưa các nước trong khu vực đến gần nhau hơn và đưa chúng đến gần châu Âu hơn. Ý tưởng này hiện nay được chấp nhận rộng rãi, và nó được biểu lộ ở Hiệp ước Ổn định cho Đông Nam Âu. Làm cho nó có kết quả phải là ưu tiên cao nhất của Liên hiệp châu Âu. Nó chắc chắn là ưu tiên cao nhất của tôi.
Đi từ cái cá biệt sang cái chung, tôi chủ trương một nỗ lực có phối hợp bởi các nền dân chủ đã phát triển để cổ vũ cho phát triển dân chủ ở những phần kém phát triển của thế giới. Nó phải có dạng trợ giúp kĩ thuật và khuyến khích kinh tế. Kinh tế học và hoạt động chính trị không thể tách rời nhau. Amartya Sen đã đưa ra lí lẽ thuyết phục rằng phát triển phải được định nghĩa bằng quyền tự do, chứ không bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). [1]
Thành viên của liên minh sẽ bao gồm Hoa Kì và Liên hiệp châu Âu, và một số lượng tới hạn các nước dân chủ từ ngoại vi của hệ thống tư bản – khác đi thì liên minh có thể hoá ra là một công cụ thống trị và bóc lột. Thành viên có vấn đề nhất sẽ là Hoa Kì, vì hiện tại nó không sẵn lòng tuân thủ các qui tắc mà nó tìm cách áp đặt lên người khác. Nó chẳng có gì để sợ loại liên minh mà tôi quan tâm, vì một liên minh như vậy không thể hoạt động mà không có Hoa Kì tham gia; tuy nhiên, nó sẽ đòi hỏi sự định hướng lại triệt để về chính sách của Hoa Kì từ chủ nghĩa đơn phương sang chủ nghĩa đa phương.
Tôi nhận ra là đề xuất của mình trái với thuyết thị trường chính thống. Viện trợ nước ngoài đã thất bại tệ hại ở châu Phi và gần đây ở Liên Xô và các quốc gia kế vị, và nó cũng đe doạ gây thất bại cho Hiệp ước Ổn định. Sự thực rằng chúng không có kết quả không có nghĩa là chúng ta phải từ bỏ ý tưởng. Đúng hơn, chúng ta phải xem xét các lí do thất bại và nghĩ ra những cách hay hơn. Viện trợ nước ngoài, như nó được quản lí hiện nay, quá thường xuyên được hướng tới thoả mãn nhu cầu của các nhà tài trợ, không phải nhu cầu của những người nhận. Tôi có thể khẳng định, dựa trên những kinh nghiệm của riêng tôi ở các nước như Nga, rằng viện trợ bên ngoài có thể có hiệu quả.
Hệ thống tư bản toàn cầu đã tạo ra một sân chơi rất không đều. Lỗ hổng giữa giàu và nghèo ngày càng rộng hơn. Điều này là nguy hiểm, vì một hệ thống không đưa ra hi vọng và lợi ích nào đó cho những người thua nhất định bị phá vỡ bởi các hành động tuyệt vọng. Ngược lại, nếu chúng ta đưa ra những khuyến khích kinh tế cho các nước hăng hái tận dụng chúng, chúng ta tạo ra một công cụ hùng hậu để ngăn ngừa khủng hoảng. Các khuyến khích nuôi dưỡng sự phát triển kinh tế và chính trị; sự thực rằng chúng có thể được rút lại tạo đòn bẩy cái có thể được dùng chống các chính phủ ngoan cố.
Đáng tiếc, cấu trúc tài chính toàn cầu thịnh hành ngày nay hầu như không tạo sự hỗ trợ nào cho những người kém may mắn. Các xu hướng hiện thời đi theo hướng ngược lại. Sau khủng hoảng tài chính vừa qua, ý định là áp đặt kỉ luật thị trường lớn hơn. Nhưng nếu các thị trường là bất ổn định một cách cố hữu, áp đặt kỉ luật thị trường có nghĩa là áp đặt sự bất ổn định – và xã hội có thể chịu sự bất ổn định đến bao nhiêu?
Bây giờ chúng ta có các thị trường tài chính toàn cầu, chúng ta cũng cần một ngân hàng trung ương toàn cầu và các định chế tài chính quốc tế khác mà sứ mệnh rõ ràng của chúng là giữ cho các thị trường tài chính vững vàng, không tròng trành. Nhưng bất kể hoạt động của người cho vay cuối cùng nào cũng gây ra hiểm hoạ đạo đức nào đó, và cuộc chiến hiện thời của những người theo thuyết thị trường chính thống là loại trừ hiểm hoạ đạo đức. Kết quả là giảm qui mô IMF. Không nghi ngờ gì, điều đó sẽ giảm nguy cơ cho vay thái quá đối với các thị trường mới nổi, nhưng theo tôi khủng hoảng tiếp theo có khả năng đến từ hướng ngược lại: từ dòng vốn chảy tới các nước chậm phát triển không thoả đáng.
Uỷ ban Meltzer do Quốc hội Hoa Kì lập ra kiến nghị biến Ngân hàng Thế giới từ một tổ chức cho vay thành một cơ quan cấp trợ cấp cho các nước nghèo nhất thế giới. Đó là một ý tưởng tuyệt vời, nhưng cách mà Uỷ ban Meltzer cố gắng là giảm qui mô Ngân hàng Thế giới và trả lại vốn chưa dùng cho các cổ đông trong một sự chuyển giao lớn nguồn lực từ người nghèo sang người giàu. Tôi tin là vốn chưa được dùng phải được sử dụng có ích hơn bằng cách tăng các hoạt động cho trợ cấp và cấp bảo lãnh của Ngân hàng. Nhưng đó không phải là cái Uỷ ban Meltzer nghĩ tới.
Tôi bày tỏ lí lẽ tương tự liên quan đến Tổ chức Thương mại Thế giới. Có nhu cầu khẩn thiết về các tiêu chuẩn lao động và bảo vệ môi trường. Song các nước nghèo không thể đủ sức làm các việc này. Thay cho các biện pháp trừng phạt, phải có khuyến khích để cho các nước nghèo có khả năng tuân theo.
Một liên minh của các nền dân chủ có thể có nhiều hình thức khác nhau. Nó có thể thử cải cách các định chế hiện hành như Ngân hàng Thế giới hay thậm chí Liên Hiệp Quốc, hoặc nó có thể hoạt động một cách phi chính thức hơn và đề cập các lĩnh vực vấn đề hay các nước đặc thù. Nó có thể có cơ hội tốt hơn để cải tổ Liên Hiệp Quốc so với bất kể nỗ lực trước đây nào, chính xác vì nó có thể hoạt động hoặc trong phạm vi Liên Hiệp Quốc hoặc ngoài Liên Hiệp Quốc nếu các quốc gia thành viên khác từ chối đi cùng. Nhưng liên minh có thể thành công chỉ nếu các thành viên của nó có thể thống nhất giữa họ với nhau. Và điều đó có nghĩa là thiết lập một số qui tắc cơ sở cho một xã hội mở toàn cầu.
Thuật ngữ "xã hội mở-open society" do Henri Bergson đưa ra năm 1932, khi ông xuất bản cuốn sách The Two Sources of Morality and Religion [Hai Nguồn của Đạo đức và Tôn giáo] của ông. Theo Bergson, một nguồn của đạo đức là bộ lạc, nguồn kia là phổ quát. Loại trước tạo ra xã hội đóng, loại sau tạo ra xã hội mở. Khái niệm được Karl Popper phát triển thêm, người đã lí lẽ trong cuốn sách The Open Society and Its Enemies [Xã hội Mở và Những Kẻ thù của Nó] của mình rằng xã hội mở bị đe doạ bởi các ý thức hệ tư tưởng phổ quát cho là mình có chân lí cuối cùng. Ông cho khái niệm xã hội mở một nền tảng nhận thức luận- cụ thể là, sự hiểu hiết không hoàn hảo cố hữu của chúng ta. Các ý thức hệ tư tưởng phổ quát, cho là mình có chân lí cuối cùng, là mối đe doạ xã hội mở vì đòi hỏi của họ có thể được áp đặt chỉ bằng cưỡng bức.
Cách diễn đạt của Bergson có ích để hiểu các xung đột sắc tộc như ở Nam Tư; cách diễn đạt của Popper có ích để làm sáng tỏ các mối đe doạ do các chế độ toàn trị gây ra, như ở nước Đức Nazi và Liên Xô. Trong và sau Chiến tranh Thế giới II, khái niệm xã hội mở có thể được hiểu dễ dàng nhất bằng đối sánh nó với các xã hội đóng dựa trên cơ sở các hệ tư tưởng toàn trị như chủ nghĩa phát xít và cộng sản. Điều này đã đúng cho đến sự sụp đổ của đế chế Soviet năm 1989.
Kể từ đó, tình hình đã thay đổi. Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản không tự động dẫn đến sự thiết lập xã hội mở. Sự phân đôi đơn giản giữa xã hội mở và đóng không còn áp dụng được nữa. Xã hội mở bị đe doạ từ một hướng không ngờ: sự theo đuổi tư lợi không kiềm chế. Chúng ta đã quen nghĩ về quyền lực - ở dạng một chính phủ áp bức hay một ý thức hệ đòi chân lí cuối cùng và tìm cách áp đặt bằng các biện pháp cưỡng bức – như cản trở chủ yếu cho một xã hội mở. Bây giờ hoá ra là thiếu quyền lực và thiếu sự cố kết xã hội có thể cũng làm suy yếu ngang vậy. Sự tan rã của Liên Xô đã chứng tỏ rằng một nhà nước yếu cũng có thể là một mối đe doạ đối với tự do. [2]
Với tư cách một sinh viên sau Chiến tranh Thế giới II, tôi sốt sắng chấp nhận khái niệm xã hội mở của Popper. Như một người Do thái Hungary đầu tiên thoát khỏi sự tiêu diệt của Nazi bằng chấp nhận một nhận dạng giả và sau đó trốn khỏi chủ nghĩa cộng sản bằng di cư, tôi đã học được khi còn trẻ loại tổ chức xã hội nào thịnh hành là quan trọng đến thế nào. Cách phân đôi giữa xã hội mở và đóng của Popper tỏ ra hết sức quan trọng đối với tôi. Nó đã không chỉ làm sáng tỏ thiếu sót căn bản của các hệ tư tưởng toàn trị mà nó cũng soi sáng một số vấn đề triết học cơ bản. Chính triết học của ông đã chỉ dẫn tôi thiết lập mạng lưới các Quỹ Xã hội Mở của tôi.
Tôi đã là một người tham gia tích cực trong cách mạng quét sạch hệ thống Soviet, và kinh nghiệm đã buộc tôi tiến hành xem xét lại kĩ lưỡng khái niệm xã hội mở. Điều đó dẫn tôi đến các khía cạnh triết học của cuốn sách này.
Tôi bắt đầu cuốn sách với việc khảo sát quan hệ giữa tư duy và thực tại. Tôi không lên án chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghĩa lí tưởng; đúng hơn, tôi tìm sự cân đối giữa hai thứ. Đúng là có một thực tại, song nó không hoàn toàn có thể tiếp cận được cho trí tuệ chúng ta. Quan niệm của chúng ta về thế giới có thể xấp xỉ thế giới như nó là, nhưng chẳng bao giờ có thể hoàn toàn tương ứng với nó. Thay vì bàn cãi bản chất của thực tại hay chân lí cuối cùng, tôi coi như điểm xuất phát của mình là sự hiểu biết của chúng ta về thế giới trong đó chúng ta sống là không hoàn hảo một cách cố hữu. Chúng ta là một phần của thế giới chúng ta tìm cách hiểu, và sự hiểu biết không hoàn hảo của chúng ta đóng một vai trò tích cực trong hình thành các sự kiện trong đó chúng ta tham gia vào. Có một tương tác hai chiều giữa sự hiểu biết của chúng ta và các sự kiện này, đưa một yếu tố bất định vào cả hai. Nó bảo đảm rằng chúng ta không thể đặt cơ sở cho các quyết định của mình lên tri thức và rằng các hành động của chúng ta có thể có các hệ quả không dự tính. Hai tác động nuôi dưỡng lẫn nhau. Tôi gọi cơ chế phản hồi hai chiều này là tính phản thân và nó là hòn đá tảng của khung khổ quan niệm của tôi.
Khái niệm phản thân hầu như hiển nhiên, thế mà nó có các hệ luỵ không được chấp nhận một cách phổ biến. Nó tạo ra một sự chia tách giữa các khoa học tự nhiên và xã hội và nó làm xói mòn các giả thiết mà lí thuyết kinh tế đã dựa vào: ứng xử duy lí nói chung, và các kì vọng duy lí nói riêng. Nó đưa ra một diễn giải về các thị trường tài chính hoạt động ra sao khác hoàn toàn cách lí thuyết kinh tế đề xuất. Đó là một trường hợp nơi khung khổ quan niệm của tôi có các hệ luỵ thực tiễn.
Trong cuốn sách này, tôi đi quá sự phê phán các ý tưởng được chấp nhận nói chung. Tôi sử dụng các khái niệm về tính có thể sai (fallibility) và tính phản thân để trình bày một lí thuyết về lịch sử. Tôi diễn giải các thị trường tài chính như một quá trình lịch sử và tôi dùng chúng như một phòng thí nghiệm để kiểm tra lí thuyết của tôi. Thí nghiệm của tôi không tạo ra các kết quả tất định so sánh được với các phương trình xác định cân bằng trong lí thuyết kinh tế. Điều này làm cho diễn giải của tôi là không thể chấp nhận được đối với các nhà kinh tế học, song tôi dám chắc, chấp nhận rằng các thị trường tài chính là không thể tiên đoán được một cách cố hữu, tốt hơn là tôn trọng một lí thuyết sai.
Tôi diễn giải lịch sử như một quá trình phản thân trong đó các quyết định có thiên kiến của những người tham gia tương tác với một thực tại vượt quá sự lĩnh hội của họ. Tương tác có thể là tự-tăng cường hay tự-hiệu chỉnh. Một quá trình tự-tăng cường không thể đi mãi mà không gặp các giới hạn do thực tại đặt ra, nhưng nó có thể đi đủ lâu và đủ xa để gây ra những thay đổi quan trọng trong thế giới thực. Nếu và khi nó trở nên không thể duy trì được, thì nó có thể khởi động một quá trình tự tăng cường theo chiều ngược lại. Các chuỗi boom-bust (hưng thịnh bột phát- lụn bại) như vậy quan sát được một cách rõ ràng trong các thị trường tài chính, nhưng phạm vi, trường độ, và diễn tiến thực sự của chúng vẫn không chắc chắn.
Khi tôi thử áp dụng mô hình boom-bust vào lịch sử nói chung, diễn giải của tôi trở thành mang phong cách riêng và gượng gạo hơn. Tuy nhiên, nó có thể làm sáng tỏ, miễn là nó không được coi là quá nghiêm túc. Đáng tiếc, tôi đã không luôn theo lời khuyên của chính mình, như độc giả sẽ thấy. Nghiêm trọng hơn, tôi cố trình bày một số ý tưởng về xã hội nên được tổ chức ra sao. Tôi phát triển khái niệm về xã hội mở, một hiệp hội của các cá nhân tự do tôn trọng các quyền của nhau trong phạm vi một khung khổ luật pháp. [3]
Thuyết thị trường chính thống không hoàn toàn chống xã hội mở theo cách các ý thức hệ toàn trị như chủ nghĩa phát xít và cộng sản đã chống; đúng hơn, nó thể hiện một sự méo mó về khái niệm, một sự cường điệu quá đáng một trong các khía cạnh của nó. Điều đó chẳng làm cho nó ít nguy hiểm hơn. Thuyết thị trường chính thống gây nguy hiểm cho xã hội mở một cách không cố ý bằng diễn giải sai các thị trường hoạt động ra sao và cho chúng vai trò chi phối quá đáng.
Những người theo thuyết thị trường chính thống tin vào quyền tự do cá nhân, chính là hòn đá tảng của xã hội mở, nhưng họ cường điệu giá trị của cơ chế thị trường. Họ tin rằng các thị trường hiệu quả đảm bảo phân bổ nguồn lực tốt nhất và bất kể can thiệp nào từ nhà nước hay từ các định chế quốc tế, đều có hại. Vì thuyết thị trường chính thống đã trở nên rất có ảnh hưởng, ngày nay nó tạo thành một mối đe doạ lớn hơn đối với xã hội mở toàn cầu so với chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội, vì các hệ tư tưởng đó đã hoàn toàn mất tín nhiệm.
Với tư cách một người chủ trương xã hội mở, tôi muốn làm rõ rằng tôi không chống chủ nghĩa tư bản per se (tự nó). Khái niệm xã hội mở và nền kinh tế thị trường liên kết mật thiết với nhau, và chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã đưa chúng ta đến gần một xã hội mở toàn cầu. Nhưng các thị trường là không hoàn hảo. Chúng có thể chỉ phục vụ cho các nhu cầu cá nhân; chăm lo đến nhu cầu xã hội vượt quá phạm vi của chúng. Và ngay cả như các nhà phân bổ nguồn lực, chúng cũng không hoàn hảo: Các thị trường tài chính là bất ổn định một cách cố hữu. Điều đó không có nghĩa chúng ta phải từ bỏ chủ nghĩa tư bản; đúng hơn, chúng ta phải cố gắng sửa các nhược điểm của nó.
Chủ nghĩa cộng sản đã tìm cách huỷ bỏ cơ chế thị trường và áp đặt kiểm soát tập thể lên mọi hoạt động kinh tế. Thuyết thị trường chính thống tìm cách huỷ bỏ đi quyết định tập thể và áp đặt uy quyền tối cao của các giá trị thị trường lên trên tất cả các giá trị chính trị và xã hội. Cả hai thái cực đều sai. Chúng ta cần nhận ra rằng tất cả mọi kiến trúc của con người đều có sai sót. Sự hoàn thiện nằm ngoài tầm với của chúng ta. Chúng ta phải tự thoả mãn với cái tốt thứ nhì: một xã hội không hoàn hảo tự để mở cho sự cải thiện. Chủ nghĩa tư bản toàn cầu rất cần cải thiện.
Đây không phải là một tóm tắt đầy đủ của cuốn sách của tôi. Thí dụ, tôi đã không nhắc đến sự phân biệt tôi đưa ra giữa làm luật và chơi theo luật. Nhưng đã nói đủ để cho biết là cuốn sách nhằm bao phủ nhiều lĩnh vực - có lẽ quá nhiều lĩnh vực. Có thể hiệu quả hơn để tập trung vào ít điểm hơn, nhưng khung khổ quan niệm gắn bó với nhau và tôi thấy khó đưa ra một điểm mà không có các điểm khác. Tôi coi điều này là một điểm yếu trong cấu trúc cuốn sách, vì dưới ánh sáng của giả thuyết công tác của tôi về tính có thể sai triệt để, không chắc là tất cả các điểm của tôi có sức thuyết phục ngang nhau.
Điểm yếu không là cố hữu trong lí lẽ, vì các điểm khác nhau không phụ thuộc logic vào nhau; đúng hơn, nó là kết quả của sự ưa thích cá nhân của tôi. Ở mức cá nhân, cuốn sách này là công trình của đời tôi. Tôi đã bắt đầu nó khi tôi là một sinh viên và vẫn chưa hoàn thành nó. Tôi không sẵn lòng buông tha nó. Nhiều điểm tôi nêu ra ở đây tôi đã đưa ra trước kia, nhưng tôi vẫn cảm thấy tôi có thể làm cho chúng tốt hơn.
Tôi có một ông cậu bên vợ, Tamas Losonczy, một hoạ sĩ theo xu hướng biểu hiện trừu tượng suốt đời ông ở
Sự thực rằng tôi đã nhồi các ý tưởng chính suốt cả cuộc đời vào cuốn sách này chẳng làm cho nó dễ đọc. Tôi hi vọng, tuy vậy, là đáng nỗ lực. Ở mức bàn luận công khai, tôi tin tôi có một số đóng góp xứng đáng. Ngoài khái niệm về xã hội mở và đề xuất cho một liên minh các nền dân chủ, tôi nhắc tới:
Khái niệm về tính phản thân;
Giả thuyết công tác về tính có thể sai triệt để;
Đánh giá sự tách giữa các khoa học tự nhiên và xã hội;
Phê phán lí thuyết cân bằng trong kinh tế học và phác hoạ một hệ thuyết mới;
Thảo luận những cách mà các giá trị thị trường thâm nhập vào các lĩnh vực mà chúng đúng không thuộc về;
Phê phán thuyết thị trường chính thống;
Khái niệm về các tình huống xa cân bằng;
Khái niệm lầm lạc màu mỡ;
Diễn giải các thị trường tài chính như một quá trình lịch sử trong đó kết quả khác với những kì vọng;
Phân biệt giữa làm luật và chơi theo luật và định đề rằng trong tham gia chính trị (khác biệt với tham gia thị trường) chúng ta phải được chỉ dẫn bởi quan niệm của chúng ta về lợi ích chung dù cho những người khác không làm thế;
Khảo sát tỉ mỉ sự khác biệt giữa trung tâm và ngoại vi trong hệ thống tư bản toàn cầu;
Khảo sát cấu trúc tài chính và chính trị toàn cầu mới.
Những khó khăn do cuốn sách này để lộ ra trở nên trầm trọng hơn bởi cách nó được viết. Khởi nguyên nó là một bài báo tôi công bố ở số tháng Hai 1997 của The Atlantic Monthly dưới tiêu đề “The Capitalist Threat: Mối đe doạ Tư bản chủ nghĩa”. Sự thực rằng một nhà tư bản nguyên mẫu đi phê phán chủ nghĩa tư bản đã gây ra sự xôn xao đáng kể, và tôi đã quyết định mở rộng bài báo thành một cuốn sách. Khi tôi đang viết, một cuộc khủng hoảng tài chính lớn thuộc loại tôi đã cảnh báo chống lại đã nổ ra tháng Bảy 1997, và tôi cảm thấy tôi có cái gì đó khẩn cấp và quan trọng để nói về chủ đề. Khi Nga vỡ nợ nội địa của nó tháng Tám 1998, tôi đã nghĩ hệ thống tư bản toàn cầu sắp tan vỡ, và vì thế tôi đã quyết định vội đưa cuốn sách đi in.
Cuốn sách được xuất bản tháng Mười Một 1998 với tiêu đề The Crisis of Global Capitalism: Open Society Endangered [Khủng hoảng của Chủ nghĩa Tư bản Toàn cầu: Xã hội Mở bị Lâm nguy]. Khi đến lúc chuẩn bị lần xuất bản bìa mềm, tôi bắt đầu sửa lại nó, và sự sửa lại mau chóng trở nên quan trọng đến mức đủ tư cách như một cuốn sách mới. Tôi quyết định xuất bản nó dưới một tiêu đề mới.
Nhìn lại, tôi đã sai khi tiên đoán thảm hoạ, và bây giờ tôi hơi ngớ mặt ra. Nhìn lại từ viễn cảnh của năm 2000, hình như là tôi đã phạm phải hai tính nhầm chủ yếu. Một là sự đánh giá thấp năng lực của các nhà chức trách tài chính để ngăn chặn tai hoạ khi nó đe doạ trung tâm của hệ thống tư bản toàn cầu. Rốt cuộc, tôi đã nhấn mạnh sự cách biệt giữa trung tâm và ngoại vi. Sự thực rằng Cục Dự trữ Liên bang đã thành công trong bảo vệ nền kinh tế Hoa Kì trong khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã thất bại trong bảo vệ các nền kinh tế ở ngoại vi là một sự biểu hiện của sự cách biệt đó. Tôi đã phải có khả năng thấy trước điều đó.
Tính toán sai thứ hai đã là bỏ qua ảnh hưởng của cách mạng công nghệ. Rõ ràng, nó đã là một nhân tố chủ yếu cho phép trung tâm giũ sạch những rắc rối ở ngoại vi. Đã có một Internet boomxảy ra đồng thời với bust ở các thị trường mới nổi. Làm sao tôi có thể bỏ qua điều đó? Tôi đã bị lầm đường bởi sự thực rằng những tiến bộ công nghệ - đường sắt, điện, điện thoại - đã xảy ra trong thế kỉ mười chín, thời kì bản thân nó là một giai đoạn của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Dù sao công nghệ cũng đã gây ra các boom và bust trong những ngày ấy. Đây là một sai lầm lớn trong phân tích của tôi, sai lầm mà tôi không thể có khả năng xoá đi mà không làm giả tư liệu lịch sử. Tôi có thể, tuy vậy, thừa nhận nó.
Bất chấp những sai lầm này, tôi cảm thấy có đủ giá trị trong cách tiếp cận của tôi để biện minh cho việc sửa cuốn sách. Lần đầu tiên trong đời tôi, các ý tưởng của tôi nhận được sự chú ý phê phán, và tôi đã được lợi nhiều từ nó. Vì sự thừa nhận sai lầm nằm ở tâm của cách tiếp cận của tôi, tôi đưa tất cả phê phán mà tôi coi là hợp lí vào. Tôi cũng đã chuyển tầm quan trọng từ tài chính sang chính trị. Cuốn The Crisis of Global Capitalism thu hút sự chú ý chủ yếu vì cái tôi đã nói về khủng hoảng tài chính. Điều này có thể hiểu được theo quan điểm của tình hình thịnh hành lúc đó và sự khét tiếng của tôi như nhà đầu cơ tài chính. Thảo luận của tôi về cái tôi gọi là “khu vực phi thị trường” gợi ra ít phản ứng hơn nhiều. Khi tôi sửa cuốn sách, tôi cảm thấy rất cấp thiết để trau chuốt các ý tưởng của tôi về cấu trúc chính trị và an ninh toàn cầu ở mức sâu hơn nhiều.
Việc sửa làm nảy sinh một vấn đề: Nếu tôi sửa đổi phân tích ban đầu của tôi về khủng hoảng 1997-1999, tôi sẽ giả mạo tư liệu lịch sử. Do đó, trong phần của cuốn sách đề cập đến khủng hoảng 1997-1999, tôi quyết định để nguyên văn bản ban đầu và chỉ ra ở đâu tôi đã sửa lại. Giải pháp này làm cho cấu trúc của cuốn sách cồng kềnh hơn.
Để bù cho điều này, tôi muốn cung cấp một lộ trình đơn giản. Trong Chương 1, tôi bắt đầu với tính phản thân và tính có thể sai. Điều này dẫn tôi đến thảo luận về phương pháp khoa học ở Chương 2.
Trong Chương 3, tôi kiểm tra tính hợp lệ và tính thoả đáng của tính phản thân trong phòng thí nghiệm của các thị trường tài chính, dựa chủ yếu vào nội dung lấy từ cuốn The Alchemy of Finance của tôi trước đây.
Trong Chương 4, tôi thử phát triển một lí thuyết về lịch sử dựa vào quan hệ phản thân giữa tư duy của những người tham gia và các sự kiện trong đó họ tham gia vào. Tính có thể sai làm cho cân bằng là không thể, để lại ba khả năng: gần cân bằng của xã hội mở; bất cân bằng tĩnh của xã hội đóng; và bất cân bằng động của sự thay đổi chế độ mang tính cách mạng. Điều này dẫn đến thảo luận về xã hội mở như một lí tưởng ở Chương 5. Trong Chương 6, tôi thảo luận vấn đề các giá trị xã hội và đưa ra sự phân biệt giữa làm luật và chơi theo luật. Khung khổ lí thuyết hoàn tất ở đây.
Phần II áp dụng khung khổ lí thuyết cho thời điểm hiện tại của lịch sử. Nhưng thời gian không đứng yên. Như đã nhắc tới ở trước, tôi bắt đầu viết The Crisis of Global Capitalism trước khi khủng hoảng tài chính 1997-1999 nổ ra; tôi vội đưa sách đi in đúng khi khủng hoảng lên đỉnh điểm và đã nghĩ lại và sửa lại nó cẩn thận kể từ đó: Tất cả điều này được phản ánh trong văn bản. Chương 7 cho một tổng quan mang tính phê phán về hệ thống tư bản toàn cầu. Chương 8 đề cập khủng hoảng tài chính 1997-1999. Chương 9 xem xét lại thất bại của Nga để tiến hành chuyển đổi từ xã hội đóng sang xã hội mở. Chương 10 khảo sát cấu trúc tài chính toàn cầu và đưa ra vài gợi ý liên quan đến những cải thiện khả dĩ. Chương 11 đề cập cấu trúc chính trị toàn cầu trong khung cảnh một trường hợp trắc nghiệm: sự tan rã của Nam Tư. Và chương 12 khảo sát các triển vọng của một xã hội mở toàn cầu.
Vì tính chính xác lịch sử, tôi giữ văn bản của Chương 7 và 8 cơ bản không thay đổi, chỉ ra nơi quan điểm của tôi đã thay đổi. Các chương còn lại bày tỏ quan điểm hiện thời của tôi.
Nơi văn bản vẫn như cũ, vì tôi không thể cải thiện nó. Tôi vẫn cởi mở cho sự phê phán, tuy vậy, tôi sẵn sàng tiến hành sửa lại nữa. Tôi đã muốn tiếp tục trau chuốt cuốn sách, nhưng cuối cùng một thời hạn khác lại đến và tôi lại phải vội đưa nó đến nhà in. Như tôi đã nói ở trước, tôi coi cuốn sách này là công trình của đời tôi và tôi tiếp tục phát triển nó chừng nào tôi còn sống.
Chú thích:
[1] Amartya Sen, Development as Freedom (New York: Alfred A. Knopf, 1999). Tiếng Việt Phát triển là Quyền tự do (Viện QLKT TW, NXB Thống kê 2002).
[2] Stephen Holmes, “What
[3] Bryan Magee, Confession of a Philosopher: A Personal Journey Through Western Philosophy from Plato to Popper (New York: Random House, 1999), p. 119.
0 comments